THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Training feng shui, certificates are only valid for feng shui students who finish the course.

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Organize feng shui and martial arts certification exams for individuals and units who have needs

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Associating with individuals and organizations operating: feng shui, martial arts, culture and art

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Provide feng shui items

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Receive support for all services and issues related to feng shui yin: tomb, code, spirituality

Translate

Thứ Hai, 31 tháng 1, 2022

Chúc mừng năm mới Xuân Nhâm Dần-2022


 

Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2022

Pháp Thuật Cắt Giấy Thành Binh - Tiễn Chỉ Thành Binh Thuật

 Pháp Thuật Cắt Giấy Thành Binh nầy , khi tu luyện thành công , người giấy có thể hóa ra binh lính , binh sĩ , họ không cần ăn uống , khi ra trận mạc dao mác đâm chém không bị thương ...., hành giả có thể huy động đạo binh lính nầy , tiến thóai , xung sát trong trận địa một cách tùy ý .



Ngày xưa Ông Tào Công , đã dùng thuật nầy để phá tan vài chục vạn quân Kim , đó là một sự thật vô cùng vi diệu của thuật nầy .
Đầu tiên , hành giả cần chuẩn bị :
- Một căn phòng yên tịnh .
- Một cái bàn nhỏ đặt ở hướng Đông , trên có bút lông , giấy vàng mỏng để viết bùa , mực Tàu và Chu Sa .
- Một xấp giấy gồm có bảy tờ giấy bảy màu .
- Một hòn đá xanh , dài 49 tấc ( Mười phân là một tấc. ) , rộng 7 tấc , dầy 49 phân.

Đợi đến giờ Tý nửa đêm , lấy xấp giấy màu để theo thứ tự từ trên xuống dưới trắng , vàng , cam , đỏ , lam , tím , đen ....sắp thành một xấp , xong dùng kéo cắt sắp giấy nầy thành hình 49 người giấy , mổi người giấy cao 7 phân , khi cắt mổi người giấy đều phải làm như sau :
Hít một hơi dài xong thổi lên tờ giấy sẽ cắt , trong lúc cắt giấy miệng niệm chú :
Hư Hư Linh Linh , Thái Thượng Ngọc Thanh , Phù Nguy Tế Khốn , Tiễn Chỉ Thành Binh, Tam Hồn Quy Tả , Thất Phách Quy Hữu , Tốc Tốc Khởi Thân , Tuân Ngã Luật Lệnh .


Khi cắt xong 49 người giấy , đem hòn đá xanh để úp lên trên 49 người giấy nầy , không để hình người giấy lộ ra ngoài ; xong lấy bút lông chấm chu sa vẽ một đạo Trấn Quỷ Linh Phù , đặt trùm lên hòn đá xanh ...... , về sau mổi lần tu luyện , lấy một người giấy ở đầu phần trên sắp giấy ra , vẻ một đạo bùa Chiêu Hồn Tựu Phách , rồi đốt lên , niệm chú bảy lần , xong đem người giấy vừa luyện xong đặt trở lại dưới hòn đá xanh phía dưới sắp giấy , lần tu luyện sau , hành giả lấy người giấy mới kế , ở phía trên sắp giấy ra , không được lấy lộn người giấy đã được luyện xong ngày trước để phía dưới sắp giấy và những người giấy đả luyện xong , không được lặp lại ; tu luyện như thế cho đến 49 ngày sau , 49 người giấy đã lần lượt được luyện xong , thì hồn phách của 49 người giấy đã hội đủ chân khí và hồn phách của chúng có thể tựu hình ; khi hành giả cần dùng , thì lấy người giấy đã được luyện xong nằm ở dưới hòn đá xanh ra , hành giả hít một hơi dài và thổi vào người giấy nầy , xong miệng lâm râm đọc chú :
Thái Vi Đại Đế , Đan Phòng Thủ Linh , Tuyển Tựu Binh Giáp , Khu Tà Phụ Chánh , Dương Hòa Bố Thể , Lai Phục Hoàng Đình , Thiên Phù Đế Lực , Chấn Nhiếp Đao Binh .
Khi hành giả đọc xong thì người giấy sẽ hiện thành binh lính , có thể tùy ý sai khiến .
Hành giả nếu tu luyện chưa hết 49 ngày , thì không thể khống chế được người giấy , nhất là đạo linh phù Trấn Quỷ , một khi bị sơ hở hay bất cẩn vì một lý do nào đó hoặc linh phù nầy , bị tróc , rớt sứt ra hay bị gở ra khỏi hòn đá xanh , thì người giấy sẽ trở nên khó trị , và sẽ đi phá phách gây nguy hại khắp nơi , tội lổi vô cùng , vì đạo bùa dán lên hòn đá xanh để trấn 49 hình nhân phía dưới giống như , những đạo bùa dán lên trán của cương thi để trấn và điều khiển cương thi của pháp sư Mao Sơn vậy ....
Khi tu luyện phép nầy , nếu để người nào được , thì phép sẽ luyện không thành .
Do đó , hành giả hãy cẩn thận ghi nhớ lấy những điều căn dặn nêu trên .

Phép Độn Thổ - Độn Địa Phi Hành Thuật

 


Phép Độn Thổ , sau khi hành giả tập luyện thành công , trong nháy mắt , có thể độn thổ đi xa ngàn dặm . Mỗi khi đến bốn ngày Thìn - Mậu -Sửu –Mùi  thì tu luyện , trong vòng 49 ngày , thì sẽ tự linh thông ứng nghiệm .
Khi tu phép nầy , cần lấy bốn loại đất Thìn - Mậu -Sửu –Mùi ( Đất Thìn khô ráo , có tính Dương : Đi về hướng đông nam , cận đông 120 độ , tìm một ít đất khô ráo . Đất Mậu có tính dương : Đi về hướng tây bắc , cận tây 300 độ , tìm một ít đất có độ khô ráo . Đất Sửu có tính âm : Đi về hướng đông bắc , cận bắc 30 độ , tìm một ít đất ẩm ướt . Đất Mùi có tính âm : Đi về hướng tây nam , cận nam 210 độ, tìm một ít đất ẩm ướt ; ( Theo kinh Dịch , Đất Thìn –Mậu khô ráo có tính dương;Đất Sửu – Mùi ẩm ướt có tính âm ) , xong bỏ vào một cái thố bằng ngọc , và đặt lên bàn thờ ….

Đến giờ Sửu (1-3 giờ sáng ), mặt hướng về phía đông bắc , quỳ trước bàn thờ , bình tâm tịnh khí , trong tâm tưởng tượng 10 vị thổ địa của 10 phương về tề tụ lại trước mặt mình , xong hành giả cúi đầu lạy 49 lần , mổi lần lạy , hít một hơi dài và thở từ từ ra , trong lúc thở ra miệng niệm , một lần chú cho mỗi lần lạy như sau :
Địa Hạ Nguyên Quân – Huy Thống Lục Phủ – Huỳnh Đình Chính Khí – Vãng Hạ Du Ư - Tinh Hoa Vạn Trượng – Ẩn Uất Bạch Hổ – Tu Đắc Địa Hành – Triều Kiến Quân Chủ .
Sau đó , hành giả đứng dậy , trong miệng cắn gỏ răng 49 lần , xong tay mặt cầm bút long , trong tâm tưởng tượng bút long là hóa thân của Thanh Long , xong chấm mực Chu Sa vẽ một đạo Địa Phù trên tờ giấy vàng ,trong khi vẽ bùa miệng đọc câu chú sau :
Địa Phóng Linh Quang , Phổ Chiếu Thượng Tang – Dưỡng Dục Vạn Vật – Tạo Phúc Bát Phương – Phù Ngã Âm Khí – Khả Thông Phủ Vương – Tử Thanh Đại Đế – Trợ Ngã Hạ Đường .

Xong lấy đạo bùa Địa Phù dùng lửa xanh lá cây đốt cháy thành tro , xong pha tro với hoàng tửu mà uống vào bụng , ý tưởng tượng dưới chân xuất hiện một cánh cửa đang mở ra , vừa thân mình chui xuống đất , hành giả liền chui xuống , như thế sẽ bắt đầu độn thổ tùy ý , mà đi đến nơi mình muốn tới ....
Tập xong như thế trong vòng 49 ngày , khi muốn độn thổ , thì hành giả chỉ cần vẽ đạo Địa Phù để xuống đất , xong miệng hít một hơi âm khí thổi xuống đạo bùa dưới đất , và miệng hét to lên một tiếng , thì dưới đất sẽ mở cửa , hành giả sẽ đi xuống cửa đó mà độn thổ , khi muốn đi ra , thì lúc đó là hành giả đã đến nơi mà mình muốn đến rồi đó ......
Điều cấm kỵ khi tập phép nầy hành giả không được thấy ánh sáng có cường độ chiếu sáng mạnh và kỵ thấy chín đồ vật thuần dương ( Cửu Dương Chi Vật ) , nếu không phép độn thổ sẽ không linh nghiệm .
Phép Độn Địa Phi Hành Thuật do người xưa dùng tinh hoa của kinh Dịch , Âm Dương Ngũ Hành , Kỳ Môn Độn Giáp , Tử Vi Đẩu Số , PhongThủy , Đông Y , Dưỡng Sinh Tu Tiên và Phương Thuật của Đạo Gia ....để hình thành một phép Độn Thổ nầy ....
Qua các giai đoạn chọn ngày giờ , phương hướng , vật liệu , pháp khí , bùa chú , quán tưởng v..v....đã cho ta thấy , thông qua các yêu cầu trên , hành giả với lòng thành khẩn , và tâm thể thống nhất , sau một thời gian thực tập , hành giả sẽ đạt đến một định lực , quán lực và chú lực ở một mức độ cao.....Khi hỏa hầu công lực đã thuần thành , đến một giai đoạn nào đó , thông qua các trình tự trên hành giả có thể mượn tiến trình nầy để phóng phát tâm năng và thần trí của mình ra khỏi cơ thể mà đi đến nơi mình muốn đến .....đương nhiên đây là một dạng xuất âm thần
Còn dạng xuất Dương Thần  thì hành giả cần phải thông qua thời gian dài để tích tụ nguyên khí , hầu tạo cho mình một pháp thân hay đệ nhị xác thân bằng năng lượng thuần dương để có thể làm một dẫn thể cho thần thức nương vào đó mà hiện ra như xác thân vật chất thật ở một nơi khác , trong khi xác thân vật chất thật sự của mình đang chìm trong đại định tại một mật thất tư gia riêng của mình vậy ......
Vài điểm cần lưu ý : 
1.- Là khi đạt được quán lực cao , thì hành giả cần có năng lực kiểm soát linh ảnh ẩn hiện theo ý muốn của mình , chứ không phải bị linh ảnh chi phối và kiểm soát lại mình ...
2.- Lòng mong muốn cao độ để đi đến một địa điểm nào đó , nhờ vậy sẽ hình thành xung động lực có thể xuất âm thần ....
3.- Khi đi đến một địa điểm nào đó , hay lại nơi người quen , hành giả cần xác nhận lại thông tin với người phụ tá hoặc bạn bè xem có đúng với lúc hành giả xuất thần đi hay không .... 
4.- Nếu thông tin không chính xác thì không hoang mang chán nản...mà cần kiểm thảo lại và loại bỏ những yếu tố dư thừa hay không hữu hiệu ..........
5.- Khi xuất âm thần đi đến đâu hay trông thấy những điều tiên tri hay kỳ lạ , thì hành giả cần giữ một tâm trạng an lạc , tâm không nắm bắt , không vọng động mong cầu , mà cần an nhiên nhi nhiên , thấy quái không quái ,thì sự quái dị sẽ tan biến đi , nếu tâm vọng động mong cầu nắm bắt sẽ bị tẩu hỏa nhập ma.
6.- Mọi huyền năng sở đắc đều phải thực tế , chính xác , hữu dụng , nằm trong vòng kiểm soát của mình ....ngược lại , hành giả vẩn còn trong giai đoạn sơ cơ hoặc bước đầu trung cấp , cần chuyên cần tu tập thêm và chỉnh sửa tâm thân nhiều hơn nữa ....
7.- Hành giả lúc nà̉o cũng trụ vào cuộc sống thực tế hằng ngày sau khi tập luyện , không được mang các ảo giác hay linh tưởng trong lúc tập vào cuộc sống , nếu không sẽ bị người khác cho là mất bình thường hay bệnh thần kinh ......
8.- Tu Tập trong vòng im lặng , thành công trong sự kiên trì và lòng thành , bí mật sử dụng quyền năng sở đắc một cách thích hợp , đúng lúc và đúng thời theo quy luật âm dương ngũ hành ....
Việc mang cơ thể vật chất thật sự để chui qua cửa địa môn ở dưới đất , xưa nay đã được sử dụng trong các chiến trận, các hành động ngụy trang thoát hiểm của nhẫn giả Ninja và các sát thủ cổ xưa , đó là các địa đạo thông hào đã được đào sẵn và đã được ngụy trang từ trước , gặp khi cấp thiết , người ta có thể độn thổ biến mất ngay sau một nháy mắt , làm đối thủ kinh ngạt hoang mang , như sự biến hoá tàng hình vô hình của ma quỷ Thần Thánh vậy ....


Hồn du địa phủ thuật

 Thuật hồn du địa phủ tu 49 ngày trước có thể triều kiến lục phán còn có thể tra xét sinh tử thọ mạng của thế nhân. Tu thuật này thường có quỷ để sai khiến nhưng chớ có sợ hãi vì quỷ không có ác ý. Chỉ có nhu quỷ mới thật tu được. Có thể sai khiến quỷ sai nhưng đừng đùa với quỷ vì sẽ bị chúng trừng trị nghiêm khắc. 


Tu thuật này cần trên dưới 7 năm. Cần dùng cổ tùng trên 7 năm chế 1 cái áo quan dày 49 phân, dài 7 xích. Mỗi ngày vào nửa đêm nằm thẳng, đầu hướng đông chân hướng tây trong áo quan, ý tưởng chân hồn của mình có thể thoát ra khỏi thân đi du nơi địa phủ. 

Kết quả hình ảnh cho 第六 魂游地府术

Dùng thất sa vẽ 1 đạo âm phù rồi uống. Rồi gõ răng 7 lần, đánh trống 7 lần rồi đọc chú như sau:

“ lục phủ thần linh, quản hạt thương sinh , ngô kim đắc trợ hồn vãng triều khanh , giải thế thiện ác dĩ phụng kỳ công , khiển phái quỷ sai , bồi ngô đồng hành".

Đọc chú 7 biến suốt 49 ngày và niệm chú. Nếu sợ thì gọi 2 quỷ sai đến trước buổi tối rồi đi theo chúng đi 7 ngày rồi về.

Sau khi chân hồn đi rồi nhục thể như xác chết. Nếu bị người phá thì sẽ thành du dạ quỷ (quỷ đi chơi rong buổi tối). Thật là đáng sợ! đáng sợ.

Pháp đánh trống trời là dùng 2 lòng bàn tay bịt tai lại. sau khi 10 ngón ôm đầu lấy ngón thực đè lên ngón trung. Dùng 2 ngón trung nhẹ gỏ đả thông hậu não, tai nghe tiếng lành lạnh.

Nhục thể thành tiên thuật : (Thuật cải lão hoàn đồng trường sinh bất lão)

 Nhục thể thành tiên thuật là bí pháp thượng thừa của tiên gia. Tu nó 49 ngày có thể kéo dài sinh mệnh 100 tuổi. 2 lần 49 ngày thì cải lão hòan đồng, 3 lần 49 ngày thì trường sinh bất lão. đến 4 lần 49 ngày thì thăng nhập thiên đình. 


Tu thuật này trước cần lắng thất tình lục dục, ác niệm không sinh. Lấy đèn 36 chén , bày phương vị bát quái, dương quái 1 chén, âm quái 2 chén, giữa đặt âm dương ngư (thái cực đồ). 



Sau khi đặt xong, ngồi trong âm dương ngư, mặt hướng chấn phương, dừng vạn niệm, ý tưởng tinh hoa linh khí thiên địa vận vật hóa thành thất sắc trường long (rồng dài), từ thất khiếu mà nhập vào thân, 1 lần tụ ở nê hòan sau đó nuốt vào hòang đình. Làm như vậy 49 lần rồi niệm chú 7 biến:

 "kim đan nhất lạp , vĩnh bảo trường sinh, ngọc hòang thượng đế, phong ngã vi khanh"

[转载]《七步尘技》


Đọc chú xong, gõ răng 49 lần thông rồi lấy thất sa ghi 1 đạo quy tiên phù rồi uống. Tu luyện lâu ngày sẽ thành chánh quả. 


Phụ thêm pháp dùng thất sa: lấy thất sa bỏ trong nghiên cho vào trong nước suối rồi lấy 1 cành non của cây bạch du (1 loại cỏ) nghiền ra, đợi đặc lại là có thể dùng, thất sa càng đỏ càng tốt

Thuật Phân Thân - Phân Thân Giải Ách Thuật

 Thuật phân thân là phép thuật nhân ra  nhiều bản thể giống nhau y hệt với hình dáng của vật thể ( có thể là con người, đồ vật, con vật), thuật phân thân có thể giúp tránh thoát khỏi sự truy lùng của kẻ thù, nhưng lạm dụng khi gặp khó khăn sẽ không còn linh nữa.



Phàm hành giả muốn luyện thuật này phải chọn vị trí đắc địa trong 1 khu rừng ở trên núi mà ít người lui tới, có thể yên tĩnh tu luyện hàng ngày. Mỗi ngày vào giờ Thìn bắt đầu hành sự tu luyện.  Đi về phương Bắc, tìm 1 cái cây cao thẳng đứng vững chắc,  có kích thước cao tầm 19inch, lóc 1 miếng vỏ cây thành hình chữ nhật. 


《紫微中天》民间法术——“七步尘技”


Chuẩn bị 2 tờ giấy vàng để vẽ bùa, kích thước tờ giấy phải cùng kích thước với lớp vỏ cây hình chữ nhật được lấy ra và khớp với phần vỏ bị cắt ra trên thân cây. Đem 2 đạo bùa dán lên phần mặt trước và mặt sau của miếng vỏ cây hình chữ nhật. Đốt 1 đạo bùa thành tro.Định tâm vẽ đạo phù đầu tiên, tập trung quán tưởng vào hình tượng trên bùa đọc thần chú sau:


“Thái ất đế quân, tứ giới thống thần, truyền ngã tiên thuật, giải ách phân thân, siêu thế độ hóa, vạn vật tùy tâm, du du mộng mộng, hư huyễn thành chân”


Đọc thần chú và ý niệm nuốt thần chú vào bụng nuốt khí xuống đan điền 7 lần, nhả khí 7 lần lên bùa, sau đó đọc thần chú này 7 lần:


“Ngũ phương đại đế, thái thượng lão quân, nguyên thủy thiên tôn, ngọc thanh thái vũ, chỉ vật hóa thân, trừu khứ chân hình, đào khu hóa nan, dĩ bảo vi linh”


Cuối cùng, gõ răng 49 lần. Thực hành như vậy trong 49 ngày liên tục. Mỗi ngày là tìm luyện 1 cây khác nhau, không được trùng lặp. Y theo pháp như vậy là 49 ngày luyện 49 cây khác nhau.


Muốn sử dụng, vẽ 1 đạo bùa Hóa thân phù rồi dán lên đối tượng muốn phân thân, đọc thần chú 7 biến. Đối tượng sẽ phân thân và trở thành 1 hóa thân của chính nó. Thân thể hành giả cũng có thể phân thân và đi lại hoạt động y như bản thể chính.


Thuật đằng vân - Cưỡi mây đạp gió

Phép cưỡi mây , là một phép đi đến cảnh Tiên Giới , hành giả cần thành tâm tu luyện , mới có thể thành công .

Hành giả tu tập phép nầy cần chọn ngày Lập Thu ( Bắt đầu mùa Thu , vào ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch tùy theo từng năm), giờ chánh ngọ ̣(Chánh Ngọ là đầu giờ Ngọ, tức là lúc 12 giờ trưa), ra cửa đi về hướng Bắc , tìm một bãi đất có trồng cây Cao Lương ,tìm chặt 49 cây , mổi cây có 7 đốt , dài 7 phân ; đem về nhà , đặt ở nơi mát , đầu cây đặt hướng về phía đông , đuôi cây đặt hướng về phía Tây , không cho ai thấy được nó .


Đợi đến giờ Tý nửa đêm ( Giờ Tý tức là từ 0 giờ đến 2 giờ khuya. ) , đem 49 cây chia thành 7 nhóm , mỗi nhóm 7 cây , cắm đầu cây hướng xuống đất , đuôi cây đặt hướng lên trời , mỗi nhóm sắp bày thành hình chòm sao bắc đẩu , sau đó bảy nhóm cây sao Bắc Đẩu nhỏ này , lại sắp thành hình chòm sao Bắc Đẩu lớn , mà cán đuôi sao Bắc Đẩu lớn này hướng về phương Bắc , mỗi cây cách nhau 7 phân , các nhóm cây sao Bắc Đẩu của mỗi nhóm cách xa nhau 49 phân ( như hình 1)

Khi cắm mỗi cây xuống đất , hành giả liền mặc niệm chú ngữ :

"Kiền nguyên bắc đẩu , thái thượng thần huy , bố vân phúc khí , vạn tà bất thôi , siêu ngã thành tiên , độ ngã kim thân , thất thất tu luyện , đạp vân thăng thiên"

Niệm một hơi ba lần câu chú trên .

Ngày hôm sau , chuẩn bị một cái bàn bát Tiên

Trên bàn để Chu Sa , Bút Mực Tàu , giấy vàng ...đến nửa đêm giờ Tý , hành giả đứng giửa chòm Sao Bắc Đẩu lớn , mặt hướng về phương Bắc , miệng niệm câu chú trên 49 lần và vẽ một đạo bùa Huyền Không Phù ( hình 2)


Không có văn bản thay thế tự động nà o.

Huyền không phù

Xong hít khí của sao bắc đẩu ( Tức mặt hướng về hướng phía sao Bắc Đẩu trên trời , miệng hít một hơi dài ) thổi vào chữ bùa trên , đem lá bùa nầy dán lên đốt giữa của cây cắm trước nhất , xong nhổ lên cây nầy lên và đem đặt dựng đứng lên cây cắm cuối cùng nhất , tức đầu cây cắm lúc đầu đem đặt dựng đứng trên đuôi cây cắm chót nhất , hai cây nầy dựng đứng , cây trên không được ngã rớt xuống , sau đó vẽ thêm hai đạo bùa Phi Vân Phù ( hình 3)

Không có văn bản thay thế tự động nà o.

Phi vân phù

Lại lấy khí Bắc Đẩu thổi vào , xong dán vào mỗi gan hai bàn chân phải và trái , mổi bàn chân một đạo bùa nầy và mặc niệm trong tâm ( Tức tưởng tượng trong đầu) , ở dưới hai chân mình có một đám mây màu xanh da trời nâng hai chân lên , đồng thời tưởng tượng mình nương vịn vào cây Cao Lương dựng khi nảy để mà năng mình lên cao ....


Cứ theo cách trên mà tu tập , mỗi ngày theo thứ tự , tuần tự lấy cây thứ hai , dựng lên cây thứ nhất .......cứ thế mà dựng cao lên mỗi ngày thêm một cây , theo phương pháp như trên ; sau 49 ngày , tức các cây sẽ được dựng thẳng đứng lên như một cái thang dài , hành giả có thể vịn cây thang nầy mà lên tới đỉnh cao , rồi từ đó mà tự nhiên cơ thể hành giả sẽ có thể bay bổng lên , như thể cưỡi mây mà bay lên trời vậy .

Hành giả không được cho ai thấy biết , trong lúc mình tu tập ; đặc biệt là đàn bà con gái có thai càng kỵ lai vãng gần nơi người tập ....Nếu không phép nầy sẽ bị phá ngay.....

*** Đôi điều nhận xét về thuật đằng vân:

Nếu là người đã từng có sở đắc cao về huyền học và khoa học Đông Tây , thì sẽ nhận ra đây là bí thuật cổ nhân đã khổ công suy nghĩ và tìm ra được sự giao tiếp , cảm ứng với tính phản từ lực của khoa học tâm sinh lý trong tâm thân con người và trường lực cùng phản trường lực của vạn vật với địa từ trái đất ......

Từ các việc như : vào ngày mùa Thu , Giờ chánh Ngọ , đi về hướng Bắc , chọn Cây Cao Lương , Giờ Tý , 49 cây , mổi cây 7 đốt , 7 phân , sắp cây theo hình chòm sao Bắc Đẩu ..........

Thì có thể những chi tiết này ứng dụng vào những ngày giờ nầy và phương hướng Bắc từ trường trái đất tác dụng nạp từ trường mạnh vào các vật dụng và tâm thân con người cho thích hợp cho việc luyện thuật đằng vân khinh thân ....

Tại sao cổ nhân không tìm cây nào khác , mà phải dùng thân cây Cao Lương mà luyện phép Đằng Vân Kinh Không nầy , thì có lẽ cây Cao Lương vào ngày giờ đó , ở hướng đó , có thể hấp thụ từ trường mạnh và khi cắm cây xuống đất , đầu cây Cao Lương cắm xuống đấ̀t , đuôi cây hướng lên trời , tức làm đảo ngược từ trường của cây và địa từ , vì thế khi dựng cây này lên cây kia nó sẽ có tác dụng như thanh nam châm có cực nam và bắc , do đó từ trường của hai cây khác từ tính thì cây sẽ hít vào nhau , để cây có thể dựng thẳng đứng lên mà không bị ngã xuống , nên 49 ngày sau , hành giả sẽ có một cái cây thang dài do 49 cây Cao Lương dựng thành ....

Việc vẽ bùa Huyền Không Phù dán vào đốt giữa mỗi cây Cao Lương , là hành giả dùng Tâm lực của mình , để hấp thu lấy một số trường lực không gian , một công thức trường lực thích hợp và nạp năng lượng nầy , vào cây Cao lương để phối hợp và làm tăng cường từ trường của Cây nầy vậy ....

Việc vẽ bùa Phi Vân Phù dán vào gan hai bàn chân của hành giả cũng cùng một nguyên lý trên , cộng thêm sự đọc chú để tâm hành giả được chuyên nhất , không có tạp niệm , hầu đi vào đại định , sau khi đi vào đại định, hành giả chuyển sang quán định để quán tưởng , như dưới chân có đám mây xanh ,

đồng thời nương vịn vào cây cao lương mà nâng mình lên cao , việc làm này có hai tác dụng , khi tâm con người đã vào đại định và chuyển sang quán định , thì các phản ứng hoá học nội tiết trong cơ thể , sẽ có tác dụng làm thống nhất các cực trường lực nam châm sinh điện từ của các tế bào cơ thể̃ , thống nhất thành một hệ thống trường lực mạnh ,

có hai cực âm dương sinh điện từ phân định trong cơ thể và sẽ gây phản cực với địa từ trái đất , cộng thêm sự tiếp lực của cây thang thực điện từ của cây Cao Lương , qua hai trợ lực trên , sau một thời gian tập hành giả có thể nhờ sự kiên trì với tâm thành khẩn cùng sự cải cách , bổ sung ,thay thế , loại bỏ các yếu tố thất bại , tăng cường tích cực các yếu tố thành công trong sau các buổi tập , nhờ vào tự và tha lực ..... thì một ngày nào đó , sự thành công sẽ đến với hành giả là điều tất nhiên vậy ...

Còn trong lúc tập , cấm không cho ai thấy , là tránh hành giả bị phân tâm , bị người ngoài dị nghị quấy phá , can thiệp làm gián đoạn việc tu tập của hành giả khiến chân khí không phát khởi để làm từ trường sinh học cơ thể mạnh lên được , mà còn suy yếu thêm .....cấm đàn bà có thai lãng vãng gần nơi tập , vì đàn bà có thai thuộc từ trường cực âm , trong bụng đang chuẩn bị hấp thụ từ trường thông tin thích hợp nạp vào thai nhi để hình thành một sinh mạng mới ...do đó sẽ làm dao động và hút mất dương khí từ trường sinh học cực dương của người đang tu tập .....

Một điều cần chú ý , hành giả trước khi tập , cần cầu nguyện vị hộ pháp trong tín ngưỡng của mình bảo vệ trong khi tập , và chỉ cộng tác với những trường lực thông tin nào của vũ trụ linh giới giúp hành giả thành công trong việc tập mà thôi ...sau khi tập xong cần hồi hướng công đức và tiễn Thần... về nơi cũ .....

Nếu sau một thời gian tập , dù thành công hay thất bại , hành giả cũng không nên vui mừng hay buồn phiền gì cả , mà luôn giữ tâm bình thường , làm tròn bổn phận của mình đối với gia đình và xã hội, giữ tâm luôn an lạc tỉnh thức và vui vẻ trong sinh hoạt , đúng theo qui củ và giữ đúng luật pháp , trật tự của xã hội hằng ngày mà mình đang sống là điều cần thiết nhất ....

Việc gia đình là quan trọng làm trước , hiếu trên , nhường dưới , trung , hiếu , lề̉ , nghĩa , trung dung tích cực , là điều nên giữ vững .....còn việc tu tập huyền thuật là học thêm thôi .... Được như thế , là ta đã ung dung ngao du hai cảnh trời người rồi đó .....

1 đạo bùa Lỗ Ban

 Có người tin rằng đọc niệm kinh Phật sẽ làm tăng sức mạnh Bùa chú của mình…mặc dù đọc kinh Phật bằng chữ Nho nên chẳng hiểu gì sất !?...Vả lại Phật cũng không hề kêu gọi đọc niệm loại bùa chú nào để làm cái chi !....Nhưng xét kỉ lại ta thấy là những người niệm kinh nầy thường giữ được nhiều hoặc ít các giới tuân thủ của nhà Phật cho cư sĩ tại gia như > không sát sanh-không nói dối-không trộm cắp-không tà dâm-không nghiện say…hình như chính những điều ấy đã góp phần làm bùa chú của họ linh thiêng chăng ?..Hay lí do cảm thấy linh thiêng ấy chỉ là xác suất tình cờ được lập đi lập lại ???


Yếu tố của sự hành pháp ấy xem ra chẳng phải đơn thuần chỉ dựa vào niềm tin …linh bất linh tại ngả…mà nó còn phụ thuộc vào sự công phu của hành giả …tức là sự tu và luyện…tu là tu bằng cái giới luật phật như nói trên …luyện là luyện cái ý trí của mình tập trung vào đề mục đối tượng nhất định nào đó …như 1 câu âm thanh vô nghĩa lập đi lập lại mãi…kèm theo 1 hình thể chữ  Nho (với bùa Lỗ Ban) hay hình kỷ hà học (với bùa 5 Ông ,bùa Xiêm, Miên…)…

Ngoài ra còn hệ thuộc vào tư thế ngồi hay đứng tuỳ môn …không phải chỉ dựa vào năng lực ý chí bản thân tự lực mà phải có phần tha lực …tức là đem đi hay trao đổi với bên ngoài bản thân mình….Ví dụ đơn giản nhất là trao đổi quang sắc …quang sắc đơn giản là của ánh sáng lửa đầu cây nhang …hay cao cấp hơn là quang sắc của mặt trăng hay mặt trời….hiếm hoi hơn là quang sắc của sấm chớp…ráng trời…cầu vòng…loại quang sắc đặc biệt là của lúc nhật thực…thật là hiếm có.

Số chu kỳ khổ luyện hay dựa vào hệ số ngày lẻ như 3-5-7-9-21-49-72-100…có người cho là hệ số nầy thuộc dương…..bây giờ tổng kết lại thì ta thấy người xưa luyện bùa chú không hẳn là mê tín -tự tưởng …mà chính là kết hợp lực tính âm dương vũ trụ vào cơ thể mình…tự biến mình thành 1 loại pin-ắc qui…để phát lực sản sinh ra theo ý muốn !

Có thể ngày xưa người ta không có phân tích lô gích lí thuật suông như trên…mà đơn giản chỉ là nghe-thích-muốn -luyện-làm….nhưng ngày nay trước khi mình nhập vào 1 học thuật kì bí nào đó …chí ít cũng cần xét qua tính chất để khỏi sa vào vòng ràng buộc thái quá của mê tín dị đoan ….

Xin giới thiệu về sưu tầm pháp thuật chữ DI…chử DI đây là chữ Nho viết trại đi theo lối tượng hình ẩn nghĩa kì bí ….được cho rằng ai khổ luyện nó sẽ có thể dùng nó để cầm máu …để trị sưng đau…trị mụt nhọt ….và cao hơn nữa là trị hay cấm kẻ xấu khác vào nhà hay vườn tược mình mà trộm cắp hay quấy phá thành quả lao động của mình .

Đầu tiên ta hãy quan sát kỉ hình chử DI được viết với thứ tự ra sao ?.. Điều nầy cũng giống như sự hình thành của 1 loại sự sống được bắt đầu và đến trưởng thành ra sao ….



Khi luyện ta cần quán tưởng các nét theo thứ tự như trên .
Khi quán tưởng ta cần niệm thần chú song hành với quán tưởng,tức là khi quán xong chữ phù cũng là niệm xong bài thần chú ,cứ như mà lập đi lập lại đến kết thúc buổi tập.

Thần chú khi tập và cũng để khi sử dụng.

Án niên cấm - nguyệt cấm - nhật cấm - thời cấm .
Án hoả nhiệt cấm - ung thư cấm - huyết ly cấm .
Ngô phụng hội đồng Lỗ Ban cấm.
Tí Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi,
Giáp Ất - Bính Đinh - Mậu Kỷ - Canh Tân – Nhâm Quí.
Cấp cấp như nhật lệnh cấm.>>

Ngày khởi sự  >buổi tối lúc 11giờ >ngày trăng tròn.
Ngày kết thúc >buổi tập cuối kết thúc vào ngày trăng tròn kì sau …
Ví dụ tập ngày 1 âm lịch…kết thúc vào ngày 15 âm lịch..là 15 ngày tất cả.

Chổ tập-ngồi xếp bằng bất kể hướng  >bất kì …miễn là không để gì làm rộn trong khi tập.
Tập không gián đoạn hàng đêm..trước khi tập đốt 1 cây nhang để cắm trước mặt trên 1chén gạo…ngó ngay đầu cây nhang ấy mà tưởng phù-niệm chú .

(khi tập mãn ngày rồi giữ lại chén gạo ấy để trên cao mà thờ , thắp nhang buổi sáng -buổi chiều tối xin Tổ sư phù hộ cho phù linh hàng ngày.)

Lúc tưởng niệm như vậy hơi thở cần thật nhẹ và êm…tưởng chữ phù hiện ở đầu cây nhang …khi đủ nét rồi mình hớp hơi vào …tưởng như đem phù vào vùng rốn….tập cỡ 20 phút hay 30 phút là đủ trong 1 buổi tập.

Tiết lộ cho kẻ khác là mình đang tập có thể hư tất cả pháp tập của mình.

-----Kết thúc chu kì tập nầy có thể là 15 hay 21 ngày tuỳ ý …không phụ thuộc vào mùa trăng cũng được….người ta tin rằng bạn có thể dùng 3 cây nhang đốt lên hoạ bóng phù lên chỗ đau …sau đó thổi khói hương vào chỗ đau 3 lần….mụt nhọt hay chỗ sưng bầm hay chỗ bị dời ăn sẽ mau chóng khỏi bịnh…..nếu không có nhang thì dùng 3 lá trầu xếp lại đơn sơ như hình cái mũi dùi nhọn rồi lấy đầu nhọn đó mà vẽ bóng bùa lên chỗ đau…rồi cũng thổi 3 lần vào chỗ đau…..Nếu không có nhang hay trầu thì chỉ cần vẽ bùa tưởng tượng bằng đầu đầu lưỡi của mình nhằm vào chỗ đau…rồi cũng thổi 3 lần vào chỗ ấy .

Muốn cầm máu đương chảy thì niệm chú hoạ phù bằng lưỡi thổi thẳng vào chổ vết thương 3 lần …lại hoạ phù bằng lưỡi vào lòng bàn tay phải rồi áp lên vết thương ..nín thở niệm chú …từ từ giở tay lên …có thể làm liên tục vài lần cho máu bớt chảy lại rồi băng bó vết thương…..Dĩ nhiên nếu vết thương sâu quá hay làm đứt động - mạch bên trong thì phải cầm máu tạm thời rồi mau đưa nạn nhân đến chỗ y tế sơ cứu gần nhất kịp thời chữa trị ….Ở đây chúng ta chỉ đóng vai trò tạm lúc chưa có phương tiện y tế cấp cứu kịp thời cho nạn nhân.

Khi hành pháp trị cần có mặt trời hiện diện, tốt nhứt là không nên hành pháp từ lúc 3 giờ chiều trở đi …bịnh sẽ lâu khỏi vì thiếu Thái Dương hỗ trợ .


Bây giờ chúng ta nói về 1 pháp cao hơn pháp trên …

Pháp sau nầy không những trị được những chứng của pháp trên như cầm máu-trị ung nhọt-trị sưng đau-trị trặc gân-trị dời ăn-trị lở tay chân …..mà còn có thể Hộ thân cho mình và cho người….có thể cấm trị gian nhân vào nhà hay khu vực riêng tư của mình. Ngày xưa người ta dùng pháp nầy để những kẻ hái trộm hoa quả không thể vào hay là vào rồi không thể ra khỏi khu vườn…cứ quanh quẩn cho đến khi bị phát hiện mà thôi ….Lí do nào kẻ xấu không thể vào thì không thể hiểu được…nhưng 1 số kể lại là bị choáng ngất …bị thấy có người làm dữ….bị nóng lạnh hành …nghe có tiếng nạt làm sợ hãi……
Cách luyện:
- Cũng luyện cùng đạo phù trên…nhưng luyện buổi sáng với mặt trời nhú lên cỡ 15-20 phút …và buổi tối với mặt trăng…nếu không có trăng hãy nhằm vào vì sao nào sáng nhất mà luyện……cần khổ luyện với 49-72-hoặc 100 ngày liên tục sẻ thành tựu ….ta nên chọn mùa nắng để tập là tốt nhất ….luyện với đèn hay nhang thì ta ngồi xếp bằng….luyện với nhật nguyệt thì ta đứng thẳng người chấp 2 bàn tay khít lại để trước ngực như cầu nguyện.

Sử dụng-sau số ngày ấn định ta sẻ thành tựu với mức độ nào đó .

Hãy áp dụng như sau cho từng trường hợp …>>>.
Trị bịnh…..như phần trên đả nói.
Trị ma tà …..vẻ bùa bằng mực tàu pha Thần sa ,vẻ trên giấy màu vàng,nhẹ thì dán trước cửa vào nhà…nặng thì dán trong phòng lớn nhất của nhà ,và dán 4 lá trên 4 bức tường,lá nầy đối diện lá kia.

Hộ thân cho người…lấy 3 cây nhang đốt lên khoán trước ngực họ ,thổi 3 lần…rồi sau lưng củng làm y vậy….công dụng yếu thì trong 1 ngày…mạnh thì 3 ngày…đủ thời gian đi và về cần thiết .

Giữ  nhà ….dùng đầu ngón cái chân phải vẽ bùa trên mặt đất ở trước tất cả cửa đi vào nhà …công hiệu 24 giờ .

Giữ vườn…..dùng đầu ngón chân cái khoán ở cửa vào vuờn trước tiên….sau đó cũng làm vậy với 4 mé vào vườn của ta …chỗ giáp ranh giữ đất mình và bên ngoài đất ….công hiệu 3 ngày đêm.

Nếu khổ luyện đủ nhật -nguyệt thì có thể hành pháp bất kể ngày hay đêm bất kị ngày giờ.

Đi vào chổ có yếm đối hay đất có ma tà –hung Thần …trước khi vào nên dùng ngón chân cái vẻ bùa trên mặt đất …rồi đứng trên bùa độ 3 giây…sau đó hảy vào.

Hoá giải thư ếm hay bùa ngải khác hại người-nếu bị không quá 3 ngày-lúc giờ ngọ,từ 11g đến 1giờ trưa…đốt 3 nhang khoán bùa trước ngực người ấy 3 lần- lại dùng nhang ấy mà trở lại khoán bằng chân nhang 3 lần vào lưng- cuối cùng vẻ buà bằng ngón chân cái ,kêu họ bước vô đứng trên bùa ấy …khoán bùa vào 1tô nước lớn ,xối từ từ trên đỉnh đầu họ xuống chân ……nếu ăn uống mắc phải Đồ ếm sẻ ói ra hay đại tiện hay trung tiện ra ngay …là khỏi bịnh.

Người xài bùa nầy và kẻ nhờ bùa nầy phải cử ăn thịt trâu-chó- mèo-cá chép-cá không có vảy và luơn-ếch-cử ăn trái khế chua –không ăn con gà lông đen….và tuyệt đối không được chửi thề …uống say….sẻ bị lạc phép .

Phép nầy luyện không cần làm lể nhập môn hay hứa thề gì hết –không bao giờ bị ông ứng bà hành gì hết –không bao giờ bị vong hồn theo phá-không bị ma quỉ khuấy trong lúc ngủ mơ- ……chỉ cần ăn ngay ở thẳng,kính trọng cha mẹ ông bà và bậc trưởng thượng,khiêm nhường với anh em bậu bạn…..không hành hạ thú vật .

Còn nghe rằng bùa nầy dùng trong nhiều việc khác nửa mà không nghe cách dùng ra sao …có thể tuỳ theo kinh nghiệm của từng người áp dụng vào công việc.

phép nầy được 1 giáo dân công giáo lớn tuổi (hơn 60t) truyền lại , ông đả tập trên 30 năm ,và mổi năm vẩn tập lại 100 ngày….từng chửa trị cho rất nhiều người trong và ngoài đạo …đối tượng được chửa trị không cần theo 1 tôn giáo hay tín ngưởng nào …chỉ cần không chửi thề và ăn ở cho tốt với mọi người …..nếu bịnh lâu khỏi cần tự sám hối nhửng lổi lầm quá khứ của mình …bịnh sẻ mau chóng thuyên giảm .

Đó là những lời dặn dò cuối của người người truyền pháp vậy……

Căn Bản Luyện Phép Lỗ Ban

Các hệ phái Lỗ Ban cho dù là chính tông hay là Lỗ ban Sát của Việt Nam thì đều có sự ảnh hưởng của Phật Giáo, các phái Tiên Gia khác như Mao Sơn, Côn Lôn, Thiên Sư, Long Hổ thì đều có cách tu luyện và câu chú thuần chất Tiên Đạo, ngay cả khi tác pháp của họ cũng vậy, lấy tha lực của Tiên Giới làm trợ giúp, còn Lỗ Ban thì có thêm bên Phật Giáo, như các Phù trị tà của Lỗ Ban Tiên Sư Trung Hoa thì có thêm các câu chú như Nam Mô A Di, hoặc vẽ tên của Phổ Am Đại Sư, thậm chí các bùa trấn yểm cũng có thêm các Mật Tự Phật Giáo, cách thức tu luyện Bùa của Lỗ Ban Việt Nam thì lại tương đôí giống Mật Tông, tuy nhiên Lỗ Ban có nguồn gốc Tiên Đạo nhưng lại ít chú trọng đến Thủ Ấn giống như các phái Tiên Gia khác.

Về căn bản người luyện Bùa Lỗ Ban thường luyện vào các giờ Tý – Ngọ - Mão – Dậu. 1 lá Bùa khi được thầy truyền cho họ sẽ tập luyện quán tưởng nó trong đầu như các cách trên, luyện khoảng từ 21 đến 108 ngày là có thể sử dụng được lá Bùa đó, các pháp sư cao tay thậm chí còn không cần vẽ Bùa ra giấy mà họ chỉ cần nghĩ đến Bùa là đã có thể tác pháp rồi, vì khi đó Bùa và cơ thể hòa vào là 1.
Nghi Thức Luyện Phép ( 1 dòng Lỗ Ban )
Thường luyện vào giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Người luyện phép cần tắm rửa sạch sẽ.
- Thắp 3 nén hương cầm ở tay, 2 tay chắp lại.
- Quán tưởng linh phù sau.
- Các linh phù này được gọi là Bùa Luyện Phép.
- Đọc chú Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn. ( Ám Lam Xóa Ha ) 7 lần.
- Đọc Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn 
Án ta phạ, bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

- Đọc chú Niệm Hương
( Nam Mô A Di Đà Phật ) 3 lần.
Hách hách dương dương.
Nhật xuất đông phương.
Vạn sự thần pháp kiết tường.
Hộ thần đệ tử thủ chấp phần hương.
Họa linh phù tổ sư tiên sư chứng giám.
Án thiên linh linh.
Án địa linh linh.
Ngã linh thần phù lai ứng hiện.
Án thiên viên địa phương thập nhị công chương.
Thần phù đáo thử trừ tà ma, quỷ mị bất đáo vãng lai.
Trừ bệnh trừ tai ương
( Nam mô phật tổ Minh Dương Bồ Tát Ma Ha Tát ) 3 lần.

Bắt Ấn Hội Tổ : Bấm ngón tay cái vào ngón Tý của 2 lòng bàn tay,sau đó đưa lên bấm vào móng tay của ngón áp út,móc hai ngón trỏ và giữa vào nhau,ngón út dựng đứng.Đặt ấn Hội Tổ lên sát ngực và đọc. CHÚ HỘI TỔ như sau :

(Nam mô Phật Tổ Như lai chứng minh.
Đạt ma Tổ sư chứng minh.
Nam mô Tam giáo Đạo sư Tam Thập lục Tổ.
Tổ Xiêm,Tổ Lèo,Tổ Miên,Tổ Mọi.
Mình dưới Châu giang –Bà lai đàng Chà.
Mẹ sanh,mẹ Lục,ông Lục Phật Tổ,Cửu Thiên Huyền nữ,Lỗ Ban chơn tử, Hoàng Cơ tổ sư
Thập nhị Thời Thần.
12 vị Thần Bùa,Thập lục ông Tà bà Tà ,bà Lục.
Cảm ứng chứng minh cho Đệ tử là ..... –TUỔI .... đả thông Huệ Tâm,Huệ Nhãn,Huệ Nhĩ,Huệ Thiệt,Huệ Khẩu, đắc quả Linh phù cứu Thế trợ dân.

• Xả ấn hội tổ lên trên đầu để khỏi đánh trúng các vong linh vô tình đứng gần.
• Đọc xong xá 3 xá.
Không có văn bản thay thế tự động nào.

• THỈNH TỔ LỖ BAN :
Nam mô vạn Pháp Lỗ Ban.
Nam mô Tiên sư Lỗ Ban.
Nam mô vần vận chuyển.
Nam mô thanh tịnh vận chuyển .
Chư Thần vãng lai trợ trì Đệ tử ... pháp danh...–Tuổi .... luyện phép cứu nhân độ Thế.
Sâm ăn băn khoăn –Ba ra rơ tá –Bơ rơ bơ rơ mặc mặc –Cẩn thỉnh Thần minh bảo trì cấp cấp như luật lệnh. ) –3 lần.

• Trong khi đọc Quán tưởng BÙA LỖ BAN như trên.
Ngũ Tổ Lỗ Ban.
Trong dòng Lỗ Ban Nam Tông có thêm Ngũ Tổ Lỗ Ban các vị này mỗi vị sẽ có 1 chữ Bùa riêng, các chữ bùa sẽ tương tự như bài vị của chư thần .
Ngũ Công Vương Phật Chú ( Ngũ Tổ Lỗ Ban )
- Cẩn thỉnh Đông Phương Thanh Đế Chí Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Tây Phương Bạch Đế Hoá Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Nam Phương Xích Đế Bửu Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Bắc Phương Hắc Đế Lãng Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Trung Ương Huỳnh Đế Đường Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Ông chỉ thiên, thiên thành phù.
- Ông chỉ địa, địa bình phù.
- Ông chỉ nhân, nhân trường sinh.
- Ông chỉ quỷ, quỷ diệt hình.
- Cấp cấp như luật lệnh.

**Chú này dùng để sên vào các loại bùa Lỗ Ban làm việc chính, các Bùa không có chú có thể sên chú này.


 

Thứ Năm, 27 tháng 1, 2022

NGƯỜI MẸ NÊN LÀM GÌ NẾU ĐÃ TRÓT PHÁ THAI?

 Nếu vô tình sẩy thai hay thai chết lưu trong bụng là do sinh mạng của thai nhi tự chấm dứt, hoặc do nghiệp lực trả quả báo nhanh chóng để tiếp tục lưu chuyển luân hồi. Nhưng nếu chủ động phá thai thì có mắc tội gì không? Người MẸ nên làm gì nếu đã trót PHÁ THAI?



Phá thai & những nỗi đau....

Có một số bà mẹ vừa mang thai khi nghe người ta nói nếu sinh đứa con này trong năm nay thì sẽ xung khắc với cha mẹ..., vì thế do mê tín tà kiến, ngay khi biết mình có bầu bèn tìm cách phá thai, không hề thương xót.

Hoặc có những người mẹ khi mang thai lo nghĩ về sức khoẻ, về kinh tế gia đình, thậm chí có những người mẹ lo cho nhan sắc xuống cấp của mình, khi thấy mình mang thai bèn tìm cách phá.

Hoặc cũng có những người mẹ, sau khi đi thăm khám bác sĩ, thấy bác sĩ nói trẻ bị dị tật, có khả năng sinh ra sẽ khiếm khuyết bệnh tật..., bèn tìm cách phá thai...

Như vậy có rất nhiều tình huống chủ quan và khách quan dẫn đến việc người mẹ tìm cách phá thai.

Phạm lỗi SÁT SINH

Các trường hợp vô tình sẩy thai hay thai chết lưu trong bụng là do sinh mạng của thai nhi tự chấm dứt, hoặc do nghiệp lực trả quả báo nhanh chóng để tiếp tục lưu chuyển luân hồi. Ở những trường hợp này người mẹ không phạm lỗi sát sinh, nhưng nếu có niềm tin tôn giáo, người mẹ cũng nên hồi hướng siêu độ cho vong linh thai nhi ấy.

Vì theo đạo Phật, tâm quả tái sinh, ngay khi thụ thai là đã mang đầy đủ phước báo làm người. Không ai có quyền chấm dứt sự sống chính đáng ấy.

Vì thế bất cứ ai có chủ ý phá thai dù dưới bất cứ nguyên nhân chủ quan, khách quan nào đều phạm vào giới giết người.

ÂN đền  - OÁN trả

Ở ngoài xã hội, giết người rất bị lên án, nhưng người ta khá thờ ơ với chuyện phá thai, bởi họ nghĩ đơn giản thai chưa chào đời nên chưa được tôn trọng ứng xử như một con người.

Nhưng với Phật giáo, thai nhi đã là một con người, gắn bó chặt chẽ sinh mệnh của nó với sinh mệnh và tâm tính của người mẹ.

Hơn nữa nhìn sâu thẳm vào nghiệp báo của mỗi người thì mối quan hệ tình thân như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái đều có những mối nợ ân oán trong đó, ân thì đền, oán thì trả.

Nếu ta tự động chấm dứt sinh mạng thai nhi thì oán càng thêm oán.

Trong kinh Phật dạy: “Lấy oán báo oán, oán nọ chất chồng. Lấy ân báo oán, oán liền tiêu tan”.

Do vậy, những người mẹ nhận thức được oan nghiệp phá thai này, nên tinh tấn trên con đường tâm linh, thành tâm sám hối nghiệp chướng đã gây tạo.

Người MẸ nên làm gì nếu đã trót PHÁ THAI?

Sám hối, niệm Phật hồi hướng cho thai nhi

  • Vào những ngày sám hối (30 hay 14 âm lịch hàng tháng) nên đến chùa bái sám.
  • Thường xuyên tụng đọc kinh Trường Thọ Diệt Tội, Lương Hoàng Sám hay Từ Bi Thủy Sám
  • Đồng thời niệm Phật hồi hướng cho thai nhi được siêu thoát.

Khởi tâ từ bi, yêu thương

Bên cạnh đó, luôn khởi tâm từ bi yêu thương trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nếu có điều kiện thì giúp đỡ các trẻ bị bỏ rơi, trẻ không nơi nương tựa.

Dành sự thương yêu đúng cách cho những đứa con hiện tại của mình, tập cho con đi chùa để khơi dậy thiện tâm và lòng hiếu thảo.

Nếu con cái có tạo bất cứ nghiệp gì cũng tìm cách nâng đỡ con hướng thiện, không đổ lỗi, oán trách, hận thù, xa lánh.

Hồi hướng công đức khi làm việc THIỆN

Hàng ngày dù làm một việc thiện nhỏ cũng hoan hỷ, hồi hướng công đức cho tất cả người thân yêu chung quanh và tất cả những ai đang đau khổ, kém may mắn hơn mình. Nếu làm được như vậy thì oan sẽ được giải, tội sẽ được diệt, phúc sẽ được sinh.

Khi tâm mình trở nên an vui nhẹ nhàng, không còn lo lắng sợ hãi thì thai nhi kia cũng đã được siêu thoát.

Nếu tâm mình vẫn còn khởi lên sự hổ thẹn bởi hành vi từng phá thai, thì cũng xem đó là một tâm thiện đáng qúy, giúp mình ở những kiếp sau dù có duyên làm mẹ cũng sẽ bảo vệ và thương yêu các con, không bao giờ khởi lên ý nghĩ phá thai.

Hãy sống ngày nào cũng như ngày cuối cùng của đời mình.

Đức Phật dạy: “Tất cả đồ gốm của người thợ làm ra, thứ nào theo thời gian rồi cũng sẽ bể. Cũng tương tự như thế, sự sống của bất cứ người nào cuối cùng cũng đến lúc chấm dứt”.

Hiểu được ý nghĩa vô thường ấy của thế gian thì hãy sống ngày nào cũng như ngày cuối cùng của đời mình.

Đối với con người và động vật, không tự tay mình giết, không xui khiến người giết, không vui mừng theo các hành động giết hại. Đó chính là tâm bất tổn hại, sống với tâm ấy, đời này vui, đời sau cũng sẽ an vui.

BÙA CHÚ: HỌC CHẲNG ĐẾN NƠI, TỰ GÂY THÊM NGHIỆP

 Gần đây các cuốn sách bán bùa, dạy làm bùa nhan nhản rồi các loại bùa in sẵn cũng được rao bán. Các thầy pháp thầy đồng mới nổi hay tự phong cũng tự tiện mà sử dụng những bùa chúa này. Công dụng có được không, hiệu quả ra sao thế nào ít ai biết, nhưng còn hậu quả thì chắc chắn là khôn lường.

30/12/2021 10:16 View: 310

BÙA CHÚ: HỌC CHẲNG ĐẾN NƠI, TỰ GÂY THÊM NGHIỆP

Gần đây các cuốn sách bán bùa, dạy làm bùa nhan nhản rồi các loại bùa in sẵn cũng được rao bán. Các thầy pháp thầy đồng mới nổi hay tự phong cũng tự tiện mà sử dụng những bùa chúa này. Công dụng có được không, hiệu quả ra sao thế nào ít ai biết, nhưng còn hậu quả thì chắc chắn là khôn lường.

 
Hãy cùng tìm hiểu cho rõ về bùa chú. Đặc biệt là BÙA CHÚ DÒNG PHÙ LỤC NHÀ TRẦN.

KHÁI NIỆM VỀ BÙA CHÚ

- Phù lục:

Tên gọi chung của các dòng pháp luyện bùa chú thư yểm đảo.

- Phù hay Bùa:

Là một tờ giấy có vẽ hình, chữ được cho là có phép năng thông tri với thần thánh, triệu hồi quỷ thần phục vụ mục đích đuổi tà hay chữa bệnh, trấn yểm...

- Lục:

Là cuốn sách, thư lục. Ám chỉ cách thức biểu đạt của lá bùa là vẽ hình vẽ chữ lên giấy.
Vậy hiểu nôm na Phù Lục là bùa giấy.
 
Còn nói như người cao đạo thì phải hiểu, phù có nhiều loại chứ không đơn thuần là Bùa giấy.
 
Ví như: Thư viết vẽ bằng hương hoặc bằng tay không có gì (Công cụ bút hương) không cần viết/vẽ trên giấy hoặc luyện cao thâm còn khắc được tâm phù (tâm ấn) trong bản cốt.
 
Phù lục của Đạo giáo hay của Đạo ta thường có cấu trúc hình dài trong khuôn khổ chữ nhật, tuân thủ lối viết trên xuống, trái phải.
 
Mỗi loại phù khi hoạ lại phải kèm một câu khẩu quyết (chú linh hoạ bùa).
 
Riêng đồng pháp Nhà Trần ta còn có thêm các lệnh hội nguyên và châu phê để thư hay khoá.
 
Một đạo bùa thường được viết trên giấy trắng hoặc giấy vàng (hoàng chỉ), chữ đen (mực tàu) hoặc đỏ (mực chu sa), viết theo chiều dọc từ trên xuống dưới, từ trái sang phải.

CẤU TRÚC BÙA CHÚ

- Nhìn chung phù lục cấu thành gồm ba phần nếu xét về mặt cấu tạo theo thứ tự: phù đầu, phù thân và phù bộ (Kết).
 
Ngoài ra còn phù triện, phù kết, phù lệnh (ấn lệnh thư hoặc sắc hoặc pháp kết, dấu bản mệnh người tu làm phù, ký hiệu tông phái…).

PHÙ ĐẦU (ĐẦU LÁ BÙA)

Phù đầu:

Hiểu nôm na là phần mở đầu trên đầu của lá bùa, dùng để cầu đến ai đó (Thần Thánh) hoặc nơi nào đó dưới danh nghĩa đó mà làm tin.
 
Thông dụng nhất là tam giáo tam tài tam thanh (biểu hiện bằng ba dấu chấm nhỏ, ba chữ V nhỏ hay ba vòng tròn trên đầu, ba gạch ngang ba hình tam giác...).
 
Thông dụng nữa là lệnh thiên úm, lệnh địa úm, lệnh linh úm, lệnh phật úm, Thần úm, lệnh ngũ hành, lệnh thái cực, lệnh lưỡng nghi, lệnh tứ tượng bát quái...
 
Ít gặp hơn là Tinh Tú trong nhị thập bát Tú (chấm nhỏ và các nét liền) hoặc phong vũ lôi điện sơn thủy.
 
Ngày xưa, các tông phái có cách vẽ khác nhau nhưng hiện nay do sự trộn lẫn các đạo phái và sự phát triển của in ấn thì cũng khó mà phân biệt được.

Phù Thần hiệu:

Nhiều đạo bùa không nhất thiết phải có thần hiệu. Phù thần hiểu đơn giản là tên hiêụ của phù chú. Nó được lấy từ tên của một vị Thánh Thần nào đó nằm trước chữ "sắc lệnh" hoặc công hiệu của bùa đó.

PHÙ THÂN

Phù Thân là hình dạng bao ngoài là bùa, ở phần giữa bùa.

Phù thân là sự tiếp nối của phù đầu. Đôi khi là biển đổi của nét đuôi trong chữ Lệnh (Sắc Lệnh) hay chữ Linh trong phần phù đầu hay các lệnh khởi phù của phù đầu.
 
Thường họa hay chia vài loại: Chung, Lô, Bôi, Kiếm khoá phân tụ...
 
Ngoài ra còn có những loại phù thân khác tùy theo công dụng. Phù thân bao giờ cũng là nơi thể hiện của công dụng lá bùa. Nó bao gồm thần hiệu hoặc các mật lệnh hay các lệnh hội nguyên lệnh âm dương ngũ hành thời gian không gian... để thể hiện lá bùa dùng để làm gì.

Phù Chú: Phần các sắc và các lệnh hội nguyên âm dương tam tài... và phần chữ nho.

Phù Chú cũng là phần chuyển linh, là mật lệnh, là pháp chính của bùa được biến hóa và khóa mã cho bùa có công hiệu như ý muốn và cũng có thể làm cho người khác hay ma quỷ không biết được sự thật.

PHÙ BỘ KẾT BÙA

Phù bộ kết thúc là một kiểu đánh dấu cái kết của đạo bùa, do người họa hoặc thư tạo ra để ấn chứng cho hiệu lực của đạo bùa.
 
Phù bộ hay gặp nhất có hình dạng: gồm một gạch ngang, hai tam giác đối mạnh mẽ như một nhát kiếm khiến tà ma kinh hãi.
 
Nhờ có sự trợ uy của Quỷ Thần Quan Tướng, nên hiệu lực của bùa phải được thực thi ngay.

PHÙ TRIỆN

Phù triện thường là những đạo phù được khắc trên gỗ và sẽ được in trên giấy rồi gia trì linh lực.
 
Khác với phù hoạ thường phải lập vị định thời hấp thiên cương thu địa sát tấu cáo khi khởi hoạ.
 
(Nên nhớ: Ngoài những lệnh hội nguyên cấp tốc và lệnh đơn còn đâu hoạ phù đa phần phải chuẩn chỉ theo từng dòng mới linh ứng).
 
Phù Triện của Trung Quốc thông thường là con dấu của pháp sư đã vẽ hay in ấn đạo bùa.
Phù triện dòng phù lục Nhà Trần lại có phù khắc sẵn nhưng khi khởi in thường là chọn ngày chọn giờ rồi làm lễ tấu cáo với Chư Thánh, khao quan khao tướng và đặc biệt loại mực in cho các mộc bản phù là loại rất đặc biệt thường dùng tam thần pha lẫn máu dấu mặn của đồng trưởng mà thác in. Nhiều thủ tục lắm. Thường bùa mộc thác ấn các dòng đồng Pháp hay làm đầu năm một lần cho tiện.
 
Giống như bất kỳ triện ấn nào khác, phù triện có thể có hình dạng khác nhau. Đa số của Trung Quốc là triện tròn hoặc triện vuông, còn phù triện của Việt ta thì chữ nhật dài ngắn to nhỏ các kiểu và thường được khắc nổi, rất ít khi thấy khắc chìm, ngoại trừ lệnh khiển binh hay lệnh thiên, lệnh âm dương... bảo bối của các dòng đồng.
 
Thông thường nhất là kiểu đạo ấn như Pháp Sư, ấn đóng sớ khoá sớ... Ngoài ra có nhiều trường hợp cả đạo phái sử dụng chung đạo ấn có hình thù hoặc ấn chứa ký hiệu chứ không nhất thiết phải có chữ viết hay triện văn.

CÁC CÁCH SỬ DỤNG PHÙ LỤC GIẤY

Chia thành 9 phép cơ bản.
  • +Yểm pháp: có nghĩa là chôn. Chôn cùng chỗ nào đó, chôn ở đâu đó.
  • + Hóa pháp: tức là đốt đi. Đốt từ chân phù lục đến đầu phù lục, không nên để đốt sót, không tốt. Hóa pháp dành cho bùa hiệu lịnh, giải hạn, cầu đảo hoặc hiệu lệnh chư thần chư thiên.
  • + Trấn pháp: tức là đặt đè lên vật cần trấn.
  • + Bội pháp: tức là xếp lại đeo trên người, thường gấp thành tam giác, ngũ giác hoặc bát quái, dán kín lại, mang trong dây lưng, hoặc đeo trên cổ. Phải gỡ ra khi đi đại tiểu tiện hoặc nơi xú uế, tránh máu tanh. Bội pháp dành riêng cho bùa hộ thân hộ thể, cầu tài cầu lợi, tránh tà tránh quỷ.
  • +Thiếp pháp: tức là dán trực tiếp lên vật hoặc nhà cửa, trực tiếp đem đạo phù dán lên trên vật, hoặc dán nơi đau yếu. Thiếp pháp dành riêng cho đạo bùa phong bế hoặc khai phóng, chắn khí âm, mở khí dương hoặc phá khí âm, hấp khí dương hoặc ngăn cản gì đó, ví dụ ma tà trùng quỷ…
  • + Ngật pháp: tức là uống bùa, đem bùa đốt thành tro, pha vào chén nước trong (nước mưa 1/2 + nước giếng 1/2) pha nửa ấm nửa lạnh gọi là âm dương thủy. Ngật pháp dành riêng cho đạo bùa kết thần, định tâm, khống chế trong ba thứ thần, tâm, khí của cơ thể...
  • + Chử pháp: tức là sắc như thuốc để uống, hình thức không khác gì Ngật Pháp, có điều sử dụng nước nóng, có thêm các vị thuốc cùng nấu. Chử pháp dành riêng cho các đạo bùa chữa bệnh, gia tăng hiệu quả của vị thuốc...
  • + Bôi pháp: tức là đem thoa lên người, một dạng kết hợp giữa Ngật Pháp và Thiếp Pháp. Đem đốt rồi cho vào âm dương thủy, rồi xát vào trong cơ thể hoặc ngậm rồi phun vào cơ thể. Sát pháp dành riêng cho các đạo bùa ẩn thân, đồng nhân, đối phó nơi ma chướng, xú uế, không khác gì mặc giáp cho thân, bảo toàn tánh mạng...
  • + Tẩy pháp: tức là đem bùa đi tắm lau cho cơ thể hoặc đồ vật hoặc nhà cửa. Đem bùa đốt rồi cho vào âm dương thủy, sau đó đem làm nước tẩy rửa cho cơ thể hoặc vật dụng hoặc pha thêm vào với các loại thuốc nam thuốc bắc tẩy rửa tà khí và uế khí thì khí, ôn hoàng dịch lệ...
Phù lục giấy cơ bản đều dùng theo 9 cách trên.
 
Còn các phép thư ếm yểm đảo trấn khai… thì đều phải tinh thông cổ học nho học và phải được truyền dậy rất cẩn trọng và cũng phải chấp nhận khổ công luyện tập.
 
Đồng nhân, người hành pháp sử dụng bùa chú nếu không được dậy gia trì lập vị hấp thiên cương luyện bùa luyện chú thì đừng làm liều.
 
Đừng bao giờ nghĩ mua vài quyển sách, sắm vài lá bùa bán tràn lan ngoài kia rồi mà đi hành đạo. Giúp người chưa thấy đâu, chỉ thêm nghiệp cho con cháu và gia đình.


Trung Tâm Phong Thủy Thiên Uy