BÙA NGẢI.( Tiếp theo )
Bùa khắc trên chì (KÀTHA).
Một lối giữ bùa thông dụng trong giới người Việt gốc Miên là Sư khắc bùa trên miếng chì, quấn lại cột vào sợi giây xe bằng chỉ ngũ sắc gọi là KÀTHA, ta gọi là dây niệt. Chính người xin bùa đem một cục chì đến nhờ Sư định ngày làm lễ gọi là bonn prasethi Kàtha và sửa soạn trước. Sư hơ chì trên lửa cho mềm, dùng búa đập dẹp và cắt từng miếng dài năm phân, ngang ba phân. Sư dùng một cây viết đầu bằng sắt nhọn gọi là dek chak vẽ bùa trên một mặt, đoạn cuốn tròn quanh một sợi giây xe bằng chỉ ngũ sắc mới gọi là Kse Kàtha. Số chì nhiều ít tùy theo loại dây Kàtha và tùy người xin.
Loại ba miếng đeo trên cổ hay cánh tay rất thông dụng có mãnh lực che chở người đeo tránh khỏi tai nạn khi đi đường và những chuyến bất trắc trên đời.
Loại năm miếng, bảy miếng hay mười hai miếng đeo ngang hông là bùa giữ mình của binh-sĩ, cảnh-sát-viên và các tay buôn lậu, trộm cướp.
Loại hai mốt miếng gồm II miếng dẹp và vo viên tròn công dụng như trên lại có thêm phép tránh được súng đạn.
Đến ngày lễ, người xin bùa mang lễ vật gồm có 5 xấp vải trắng, một số tiền theo sự thỏa thuận trước với sư, một cái nồi đất mới, một bao đèn cầy và một bao nhang. Sư đề trên cái khánh thờ đóng vào vách cùng với hai đoạn thân cây chuối có cắm nhang và hai ly nước có mùi thơm. Sư đốt đèn, nhang nhiều vài giọt dầu thơm vào một cái ô bằng đồng đựng phân nửa ô nước lạnh rồi để lên khánh thờ. Cuộc lễ bắt đầu. Sư ngồi xếp chân trước khánh, người xin bùa ngồi phía sau bên phải. Sư đọc kinh, tay trái cầm giây Kàtha, tay mặt xoa qua, xoa lại, thỉnh thoảng ngồi vào một lần. Lát sau, Sư xoay lại đeo giây vào cổ người xin, cầm miếng lá chuối cuốn tròn chấm vào ô nước rẩy trên đầu, trên vai kẻ đeo bùa. Người này kính cẩn chấp tay vái khánh thờ và vái Sư vừa lầm thầm khấn nguyện. Lễ xong, giây Kàtha có đủ hiệu lực che chở người đeo nó. Người ta đeo Kàtha lúc đi đường, lúc đi làm ăn mà có phần nguy hiểm. Khi ở nhà, lúc đi tắm, đi cầu phải cởi ra để trên bàn thờ không được bỏ bậy bạ. Một tháng, ba tháng hay sáu tháng phải đem Kàtha đến Sư “tom’’ bùa thêm để giữ đủ quyền lực. Thời hạn này tùy Sư ấn định.
Bùa vẽ trên khăn, trên vải .
Vị Sư cho bùa trên khăn, trên vải gọi là KROU YON tài lực cao hơn Sư cho dây Kàtha. Sư vẽ bùa trên khăn tay để bỏ túi, trên mảnh vải to bằng cái khăn quấn cổ gọi là Kanseng dek chát, và trên cái áo gọi là ao yon. Vải may khăn và áo là vải trắng thường nhuộm màu xanh lá cây. Đối với người Việt gốc Miên màu xanh lá cây là màu để dành riêng cho những nhân vật quan trọng, cho cấp chỉ huy. Theo thần thoại Bà-la-môn thân thể các vị thần đều có màu xanh lá cây đậm. Mỗi khi cho khăn hay áo bùa, pháp-sư hỏi kĩ tên tuổi của ông bà, cha mẹ người xin tính toán cẩn thận tùy theo số mạng của từng người mà vẽ bùa trên vải. Khi nhận khăn, áo, người xin cũng đem lễ vật đến nhà Sư làm lễ giống như lễ xin giây Kàtha.
Uy lực của khăn áo bùa cũng giống như dây Kàtha. Riêng về ao yon thì “hùng mạnh” hơn: người mặc áo bị đánh không đau, chém không đứt, súng bắn không trúng. Số tiền thỉnh cái áo rất cao vì ít có vị pháp-sư nào có đủ tài ban cho. Người ta mặc áo bùa mình khi đi ra ngoài, khi làm hay giữ khăn bùa trong ăn bằng nghề nguy hiểm; lúc ở nhà thì để trên bàn thờ. Hàng tháng phải cúng lạy vào ngày mồng 8, ngày 15 và khi hết thời hạn do Sư ấn định, phải đến nhà Sư “tom” bùa lại.
Bùa xâm trên thân thể .
Muốn xin xâm bùa trên thân thể, người con trai phải đủ tuổi vị thành niên thường là 17 tuổi mới được Sư nhận. Vị Sư xâm bùa gọi là Krou Sắc. Sư dùng một mũi kim cắm trong cái cán gỗ gọi là dek chak xâm chữ Phạn và hình Thần Bà-la-môn ở cùi trỏ, đầu gối, cổ tay, bả vai để giữ đương sự khỏi bị chặt, gãy xương và khi bị đánh đỡ đau. Mỗi lần xâm như thế. Sư không tổ chức lễ bái gì cả, việc này xem như một việc làm hàng ngày trong giới người Việt gốc Miên.
Lớn lên, nếu cậu con trai thích học võ thì xin thọ giáo với ông thầy gọi là Krou Kuôn. Vị võ sư nào cũng biết xâ bùa và tự xâm cho học trò trên bắp thịt, khắp thân thể. Uy lực của bùa che chở cho kẻ bị đánh không đau và thân thể tăng thêm phần lanh lẹ. Bùa xâm nhiều như thế có hiệu nghiệm nhiều hơn cách xâm ở trên và có thể đỡ được các lối đánh bằng tay, chân và gậy gộc, nhưng không thể tránh súng đạn.
Vô hột xoàn vô kim trong mình .
Người có nhiều tiền có thể xin Sư “Vô” hột xoàn, hay kim vàng, kim bạc trong mình để khỏi bị chém, bị đánh chỗ nào thì hột xoàn hay kim “chạy” đến đó đỡ đòn và khi sắp có tai nạn, kim hay hột xoàn sẽ chích nhẹ trong mình cho biết để tránh. Tùy theo ý người xin muốn vô thứ nào và số lượng nhiều ít thì đem đến Sư làm lễ cúng bái đàng hoàng. Sau khi đọc xong thời kinh, Sư cầm hột xoàn hay kim để trên cánh tay đương sự, đọc thần chú một hồi, khi Sư dở tay lên thì xoàn hay kim “lặn” mất vào trong mình mà không có dấu vết trầy, sứt gì cả. Sư dạy người vô kim một câu thần chú “gọi” các món ấy nổi lên da cho rờ xem làm chắc, và muốn cho nổi lên chỗ nào cũng được. Bình thường thì xoàn hay kim chìm vào trong, khi nào có tai nạn sẽ nổi lên chống đỡ. Khi đương sự không muốn giữ trong mình nữa thì nhờ Sư “lấy” ra. Sư làm lễ, đọc kinh rồi để bàn tay trên cánh tay người ấy, đọc thần chú một hồi, xoàn và kim sẽ theo tay Sư ra ngoài không thiếu chút nào.
Người dùng bùa theo lối này là dân sang, có tiền dư không muốn giữ khăn, sáp hay dây Kàtha trong mình, nhất là không muốn cho người khác biết mình có bùa. Lẽ cố nhiên mỗi lần vô bùa rất tốn kém và tiền công của Sư vì không phải Sư nào cũng có tài dám đảm nhận việc này.
Nước thuốc luyện gồng .
Có vị pháp-sư biết chế thứ nước thuốc cho người uống gọi là TUK THNAM KONG để da thịt cứng rắn, dao búa chém không đứt, ta gọi là GỒNG. Người nào đã dùng thuốc rồi thì không còn sợ ai chém nữa, dù là chém lén. Lưỡi dao đụng đến thân thể kẻ ấy cũng như gặp cao-su. Phương pháp chế thuốc được giấu kín, nhưng có người cho biết một vài món cho Sư tìm như sau: Sư bỏ trong một cái hũ nước lạnh:
- Loại dây leo mọc từ trên nhánh cây da thòng xuống như cái thăng gọi là CHANDO SƠHOA.
- Loại cây nhỏ có dầu gọi là DIA PRENG.
- Loại cây chùm gởi mọc trên các gốc cổ thụ gọi là BA NHƠ KA ÉT.
- Thịt con trăn gọi là PỘT THLANN.
- Thịt con bìm bịp gọi là A ỐT SBÂU.
- Thịt con cù-lần gọi là LÔ NHI.
- Phần của con kên kên lông đỏ lấy tại ổ gọi là SÂMBÓC THMÁT PHLƠN.
Ngoài ra không ai được biết Sư làm gì và bỏ gì thêm trong hũ. Sư bịt miệng hũ bằng lá chuối cột giây, trên cắm ba cây nhang, đoạn để hũ trên lò lửa. Sư vạch một ô vuông xung quanh lò, mỗi góc cắm một cái nọc gỗ trên bề mặt đoạn thân cây chuối gọi là Salatho có cắm cây đèn cầy. Từ nọc gỗ này đến nọc kia, Sư cột sợi chỉ trắng để đóng khung cái lò. Vừa làm Sư vừa đọc thần chú lẩm bẩm trong mồm. Sư đốt lò và đốt bốn cây đèn cầy ở bốn góc, ngồi canh lửa cho đến khi Sư nhận thấy thuốc đã tới. Sư tắt lửa và để nguyên hũ trên lò cho đến khi thuốc nguội mới cho người xin dùng.
Mỗi lần luyện gồng phải mất bảy ngày gọi là TRANAM. Suốt khoảng thời gian ấy, đương sự chỉ uống toàn nước thuốc, không được dùng chất gì khác. Khi hũ thuốc cạn, Sư đổ thêm nước, nấu lại, bao nhiêu lần cũng được. Đến ngày thứ bảy, Sư cầm cái dao bén chém lên lưng người luyện gồng nhiều lần thật mạnh, nếu lưng không bị đứt là thuốc có công hiệu ngay một lần dùng thuốc. Có khi người luyện phải uống liên tiếp hai hay ba lần thuốc mới có kết quả. Mỗi lần Sư phải chế hũ thuốc mới.
Giữ bùa phải thế nào?
Người xin bùa của một vị Sư Sãi hay một vị pháp-sư được nhận làm đệ tử của Sư, phải nghe lời Sư dặn trong lúc giữ bùa. Nếu coi thường, cẩu thả hay trái lệnh thì gặp sự phản ứng tức thì.Tùy theo lỗi nặng nhẹ mà gánh chịu hình phạt. Có người phải bỏ mạng vì phạm lỗi nặng. Những điều cấm kỵ gồm có ba mục tiêu: tinh thần, sự tôn kính và các thức ăn.
Về tinh thần, Sư dặn 5 điều: Không giết người, không trộm cắp, không nói láo, không gian dâm, không dùng những món vật làm thỏa mãn thú tánh. Kẻ trộm dùng bùa làm quấy lại tin rằng chúng sẽ cúng chùa làm phước sẽ hết tội và bùa không mất sự linh ứng!
Về sự tôn kính, người giữ bùa phải lập một cái khánh thờ riêng để ngang đèn thường trực và để giây Kàtha. Tượng Phật, hộp sáp, khăn bùa vân vân… khi ở nhà. Lúc muốn đeo bùa, phải thắp nhanh vái lạy rồi mới lấy. Nếu đệ tử dọn nhà đi ở nơi khác, phải để bùa trong rương và phải để ở trên quần áo. Bùa phải để trong hộp hay gói kĩ lưỡng, không được để gần vật gì ướt hay dơ ráy. Bùa để trong rương rồi không được ngồi trên đó. Tất cả các loại bùa không bao giờ được dùng hay đeo phía dưới lưng quần. Hộp sáp để trong cái khăn mới, cột trên cổ hay để trong nón. Khi cần đến lúc đánh nhau hay binh sĩ ra trận thì ngậm và mồm. Giây Kàtha thì đeo trên cổ, trên cánh thay hay ngang hông. Ao yon mặc trong mình như áo lót. Khăn bùa cột trên cổ. Khi đeo bùa trong mình, người ta không được đi dưới sàn nhà, chui ngang xà phơi quần áo, giàn trò cất nhà, giàn bầu, giàn mướp, không được đi gần chỗ dơ ráy. Lỡ phải đi tiểu phải đứng không được ngồi. Đi tiểu thì để bùa ở ngoài cầu. Người giữ bùa phải cẩn thận, đừng để kẻ khác ăn cắp, mặc rầu kẻ nào dùng bùa lạ với mình sẽ bị nhiều tai hại khó lường được.
Về thức ăn, tùy theo loại bùa, Sư dặn đệ tử tránh các thứ trái cây và rau như: Dưa leo, tỏi, rau mò om, giềng, khoai môn, đu đủ, bí, khế. Khi ăn cơm với thịt bò, thịt heo phải cởi bùa ra.
Người cầm bùa phải giữ lời hứa với Sư, lời thề với Tổ. Phản Tổ quốc, phản bạn sẽ bị chết vì súng đạn, bất đắc kì tử. Chưởi thề, mắng nhiếc người khác sẽ bị tai nạn xe cộ hoặc bị đạn mà không chết. Lấy vợ người, hiếp con gái sẽ bị thương ở bộ sinh dục. Phạm lỗi nhẹ bùa sẽ hành nhức đầu, chóng mặt, có khi nằm chiêm bao thấy vị Tổ quở trách. Đương sự phải thắp nhanh tạ lỗi, đọc câu thần chú do Sư truyền khi trao bùa, rồi bỏ giây niệt ( Kàtha) trong một ly nước lạnh, uống ba hớp, rửa mặt, rửa đầu bằng nước ấy. Xong, phải để mặt cho khô, không được lau bằng khăn. Làm như thế, bịnh sẽ hết ngay tức thì, đó là Tổ Sư bằng lòng tha lỗi. Phạm lỗi nặng, Thần linh sẽ không theo nữa, người cầm bùa không còn thấy sự linh ứng gì hết, ví dụ: có bùa gồng chém không đứt lúc phạm lỗi sẽ bị chém đứt như người bình thường. Tiếng trong giới là KHỐT KROU nghĩa là hư bùa.
Kẻ nào dùng bùa làm quấy như gạt đàn bà góa đoạt của, lừa người lấy tiền, vay tiền rồi quịt tuy có hưởng lợi một ít lâu nhưng sau đó sẽ bị tai nạn hao tốn xấp ba xấp bốn lần và khổ nhục ê-chề, đau đớn gấp trăm lần đã hưởng được sự sung sướng một cách bất lương. Ngay cả khi vị pháp-sư ỉ có thần lực hại người ăn tiền hay để hưởng lợi cũng bị Trời phạt cho thân tàn ma dại, con cháu nghèo khổ, tàn tật suốt đời, làm trò cười cho thiên hạ.
Bùa trong thời khói lửa.
Trong thời khói lửa, người Việt gốc Miên nhờ quý Sư Sãi cho bùa để tránh súng đạn. Vị Sư thường biểu diễn cho người ta xem tài mình như cầm trái lựu đạn cho nổ trên tay mà không bị thương, hoặc đưa ngực cho người bắn mà không trúng. Người đeo bùa loại này vào thì không sợ súng đạn, dù cho bị bắn cũng rách quần áo mà thôi. Gặp trường hợp địch bao vây hoặc rượt gần kề, người có bùa đọc câu thần chú rồi thì, hoặc:
- Nín hơi chạy một mạch,,
- Ngồi vịn cái ghế,
- Ngồi nắm một bụi cỏ,
- Đứng vịn một thân cây thì đối phương sẽ không thấy mình. Một số quân nhân Việt cũng nhờ quý vị Sư Việt gốc Miên cho bùa để giữ mình vì thấy sự linh ứng trước mắt của anh em binh sĩ Việt gốc Miên hàng ngũ. Có người lại nhờ bùa ngải để làm… chánh trị nữa. Đó là người tổ chức Đảng Khăn Trắng dùng miếng mồi này để nhử một số thanh niên hiếu kỳ, thích phiêu lưu. Ông ta tuyên truyền rằng các đệ tử đi theo ông được cấp mỗi người một cái khăn trắng đeo trên cổ. Khăn này là khăn bùa có uy lực cản súng đạn không thể chạm vào mình nghĩa là người có khăn sẽ trường sinh bất tử. Bề dài và bề rộng của khăn tùy theo số mạng tuổi tác của người được cấp từ hai thước đến hai thước rưỡi bề dài và rộng nguyên khổ vải. Ngoài cái khăn, các Đảng-viên được học thêm bùa tàng hình, có thể đi trước mặt kẻ khác mà kẻ ấy không thấy mình! Nhưng khi ra trận rủi có ai bị bắn chết thì vị chỉ huy cho là kẻ ấy tới số, không thoát khỏi số trời đã định. Câu chuyện trên đây đi vào lịch sử từ năm 1960 đến ngày I-II-1963 thì cáo chung, ông cầm đầu dắt cả Đảng ra đầu thú với Chánh-phủ sau mấy năm gây rối ở vùng biên giới Châu-Đốc, Hà-Tiên.
dienbatn giới thiệu và minh họa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét