THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Training feng shui, certificates are only valid for feng shui students who finish the course.

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Organize feng shui and martial arts certification exams for individuals and units who have needs

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Associating with individuals and organizations operating: feng shui, martial arts, culture and art

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Provide feng shui items

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Receive support for all services and issues related to feng shui yin: tomb, code, spirituality

Translate

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2020

CÁCH ĐÁNH CHUÔNG TRỐNG BÁT NHÃ MỚI

 Để giúp cho đại chúng lắng đọng tâm tư, đoạn trừ phiền não và tập trung trí huệ, trong các buổi lễ Phật giáo. Các chùa Việt Nam thường cử 3 hồi chuông trống Bát Nhã. Có 2 cách cử chuông trống Bát Nhã:



 Có chuông Báo chúng và Bảng gỗ câu vào với Đại Hồng Chung và Trống đại.

Có chuông Gia trì câu vào với Đại Hồng Chung.
Phật tử chúng ta thường chỉ học cách thứ nhì để xử dụng trong các buổi lễ thông thường mà thôi.

Khai chuông Gia trì: Muốn khai chuông Gia trì, vị phụ trách Công văn phải trình lên Thầy Chủ Sám trước. Nếu chưa được sự đồng ý của vị nầy thì không được tự động khai chung. Mục đích là để đại chúng chuẩn bị: quý Thầy đắp y, đại chúng giữ im lặng và tập trung vào vị trí hành lễ.
Cách khai: Vị phụ trách Công văn trở cán chuông lại (dùng phần gỗ) mà nhịp nhẹ lên thành miệng chuông 7 tiếng với trường độ như sau: O O O O O O O ( cường độ không được đánh mạnh quá, nếu mạnh có thể vỡ chuông) xong trở dùi chuông lại và đánh 3 tiếng : Boòng, Boòng , Boòng.

Tiếp theo là đánh 3 hồi chuông Gia trì. Xong 3 hồi chuông Gia trì, dứt 4 tiếng để câu chuông trống Bát Nhã vào như sau:
Gia trì

Đại hồng chung

Trống

Kèng

Boòng

Thùng

Kèng Kèng

Boòng

Kèng

Boòng

Thùng

Câu tiếp theo 1 hồi Đại hồng chung và Trống mỗi thứ 1 tiếng lòn nhau đến dứt hồi ( chuông trước trống sau).

Bắt đầu 3 hồi chuông trống Bát Nhã: Mỗi tiếng trống đánh đúng vào mỗi chữ của bài Kệ:

Bát Nhã Hội

O

OO

Bát Nhã Hội

O

OO

Bát Nhã Hội

O

OO

Thỉnh Phật Thượng Đường

O O

OO

Đại chúng đồng Văn

O O

OO

Bát Nhã âm

O

OO

Phổ nguyện pháp giới

O O

OO

Đẳng hữu tình

O

OO

Nhập Bát Nhã

O

OO

Ba La Mật môn

O O

OO

Ba La Mật môn

O O

OO

Ba La Mật môn

O O

OO

Ba La Mật môn

O O

OO

Ba La Mật môn

O O

OO
Tiếp tục và nhỏ, nhanh dần cho đến dứt 3 hồi, kết thúc bằng 4 tiếng:

Tiếp tục và nhỏ, nhanh dần cho đến dứt 3 hồi, kết thúc bằng 4 tiếng:
Boòng Thùng
Boòng Thùng Thùng
Boòng Thùng
Boòng

Lưu ý: Chuông trước và sau cùng, trống ở giữa.

(XEM NGHI THỨC TỤNG NIỆM ) do:

Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết
Hòa Thượng Thích Giác Nhiên
Hòa Thượng Thích Khánh Anh
Hòa Thượng Thích Giác Nguyên

Chứng Minh

Hoà Thượng Thích Đôn Hậu
Hoà Thượng Thích Mật Hiển
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu

Hiệu đính

Ý nghĩa bài Kệ:

Đại ý bài Kệ nầy là cung thỉnh chư Phật nói lý Bát Nhã và nguyện cho đại chúng hiện tiền cùng tất cả chúng sanh đều được thâm nhập giáo lý cứu cánh ấy. ( Hành Lễ Nghi Thức của Thầy Thích Nguyên Trạch)

Bản Anh ngữ của Judith Crews dịch từ bài Quelques Caractérisques De La Musique Bouddhique Du Việt Nam của Giáo sư Trần Văn Khê:

Bát Nhã Hội:

Assembly of Prajna (lit. “Enlightenment”)

Thỉnh Phật thượng đường:

We invite Buddha to come to the place of worship.

Đại chúng đồng văn:

The faithful have all heard

Bát Nhã âm:

The sound of Prajna,

Phổ nguyện pháp giới:

The sound of the drum and the bell are spreading out in every direction,

Đẳng hữu tình:

For every living species,

Nhập bát Nhã:

Enter into the world of the Prajna,

Ba La Mật môn:

By the door which lets you cross over to the other shore. (Đáo bỉ ngạn = Đến bờ bên kia)
GHI CHÚ:

Trường độ của mỗi câu kệ cũng như mỗi hồi trống không quy định. Nhưng kéo dài, hay đánh nhanh quá đều rất khó nghe. Nên theo Giáo sư Khê đã đo trong một buổi lễ để làm chuẩn thì:

Hồi đầu tiên (First roll) = 1 phút (1’ 00’’)
Hồi thứ nhì (Second roll = 2 phút 10 giây (2’10’’)
Hồi thứ ba (Third roll) = 3 phút 4 giây (3’04’’)


Đây cũng chỉ là một khoảng thời gian vừa phải chứ không phải là thời gian qui định bắt buộc.
¨ Chuông đại hồng chung thường đúc có 4 (bốn) cục u hình tròn để đánh dùi vào, mỗi cục có khắc tên một mùa bằng chữ Nho như: Xuân, Hạ, Thu, Đông, cứ đánh hết một mùa lại xoay chuông qua mùa khác để chuông mòn đều và giữ được âm thanh hay.

Nguồn: Nguyên Hòa

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2020

Nhục thể thành tiên thuật : (Thuật cải lão hoàn đồng trường sinh bất lão)

 Nhục thể thành tiên thuật là bí pháp thượng thừa của tiên gia. Tu nó 49 ngày có thể kéo dài sinh mệnh 100 tuổi. 2 lần 49 ngày thì cải lão hòan đồng, 3 lần 49 ngày thì trường sinh bất lão. đến 4 lần 49 ngày thì thăng nhập thiên đình. 

Tu thuật này trước cần lắng thất tình lục dục, ác niệm không sinh. Lấy đèn 36 chén , bày phương vị bát quái, dương quái 1 chén, âm quái 2 chén, giữa đặt âm dương ngư (thái cực đồ). 

Sau khi đặt xong, ngồi trong âm dương ngư, mặt hướng chấn phương, dừng vạn niệm, ý tưởng tinh hoa linh khí thiên địa vận vật hóa thành thất sắc trường long (rồng dài), từ thất khiếu mà nhập vào thân, 1 lần tụ ở nê hòan sau đó nuốt vào hòang đình. Làm như vậy 49 lần rồi niệm chú 7 biến:

 "kim đan nhất lạp , vĩnh bảo trường sinh, ngọc hòang thượng đế, phong ngã vi khanh"

[转载]《七步尘技》

Đọc chú xong, gõ răng 49 lần thông rồi lấy thất sa ghi 1 đạo quy tiên phù rồi uống. Tu luyện lâu ngày sẽ thành chánh quả. 



Phụ thêm pháp dùng thất sa: lấy thất sa bỏ trong nghiên cho vào trong nước suối rồi lấy 1 cành non của cây bạch du (1 loại cỏ) nghiền ra, đợi đặc lại là có thể dùng, thất sa càng đỏ càng tốt


Hồn du địa phủ thuật

Thuật hồn du địa phủ tu 49 ngày trước có thể triều kiến lục phán còn có thể tra xét sinh tử thọ mạng của thế nhân. Tu thuật này thường có quỷ để sai khiến nhưng chớ có sợ hãi vì quỷ không có ác ý. Chỉ có nhu quỷ mới thật tu được. Có thể sai khiến quỷ sai nhưng đừng đùa với quỷ vì sẽ bị chúng trừng trị nghiêm khắc. 


Tu thuật này cần trên dưới 7 năm. Cần dùng cổ tùng trên 7 năm chế 1 cái áo quan dày 49 phân, dài 7 xích. Mỗi ngày vào nửa đêm nằm thẳng, đầu hướng đông chân hướng tây trong áo quan, ý tưởng chân hồn của mình có thể thoát ra khỏi thân đi du nơi địa phủ. 


Kết quả hình ảnh cho 第六 魂游地府术



Dùng thất sa vẽ 1 đạo âm phù rồi uống. Rồi gõ răng 7 lần, đánh trống 7 lần rồi đọc chú như sau:

“ lục phủ thần linh, quản hạt thương sinh , ngô kim đắc trợ hồn vãng triều khanh , giải thế thiện ác dĩ phụng kỳ công , khiển phái quỷ sai , bồi ngô đồng hành".

Đọc chú 7 biến suốt 49 ngày và niệm chú. Nếu sợ thì gọi 2 quỷ sai đến trước buổi tối rồi đi theo chúng đi 7 ngày rồi về.

Sau khi chân hồn đi rồi nhục thể như xác chết. Nếu bị người phá thì sẽ thành du dạ quỷ (quỷ đi chơi rong buổi tối). Thật là đáng sợ! đáng sợ.

Pháp đánh trống trời là dùng 2 lòng bàn tay bịt tai lại. sau khi 10 ngón ôm đầu lấy ngón thực đè lên ngón trung. Dùng 2 ngón trung nhẹ gỏ đả thông hậu não, tai nghe tiếng lành lạnh.

THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN


ĐÔI LỜI MỞ ĐẦU : " Gần 95% người Thái theo đạo Phật Nam Truyền (bao gồm các phái Thiền Lâm Thái Lan, Dhammayuttika Nikaya và Santi Asoke). Một nhóm nhỏ người Thái Lan (4.6%) theo đạo Hồi, 0.7% dân số theo đạo Thiên Chúa. Ngoài ra, còn có các tôn giáo khác. Phật giáo Nam Tông ở Thái Lan được sự hậu thuẫn và quan tâm lớn từ Chính phủ. Các nhà sư được hưởng nhiều lợi ích do Chính phủ mang lại, ví dụ như được sử dụng các phương tiện giao thông công cộng miễn phí.
Phật giáo ở Thái Lan bị ảnh hưởng lớn bởi các niềm tin truyền thống về tổ tiên và các vị thần tự nhiên; các niềm tin này đã được đưa vào vũ trụ luận Phật giáo. Hầu hết người Thái xây một miếu thờ nhỏ trong nhà, là một ngôi nhà gỗ nhỏ nơi mà họ tin rằng là chỗ trú ngụ của các vị thần linh. Người Thái dâng thức ăn và nước uống cho các vị thần này để cho các thần hài lòng. Nếu các vị thần không hài lòng, thần sẽ đi ra ngoài miếu thờ và trú ngụ trong nhà của gia chủ và quấy nhiễu. Những miếu thờ này cũng được dựng lên ven đường ở Thái Lan, nơi mà công chúng thường xuyên dâng lễ vật lên các vị thần.
Trước khi Phật giáo Nam Tông phát triển, Bà-la-môn Giáo Ấn Độ và Phật giáo Phát triển đã hiện diện. Ngày nay, ảnh hưởng từ hai truyền thống này vẫn còn rõ nét. Các chùa Bà-la-môn đóng một vai trò quan trọng đối với tôn giáo dân gian Thái, và các ảnh hưởng từ Phật giáo Đại Thừa vẫn còn được phản ánh trong các hình tượng, ví dụ như Quán Thế Âm, một hình dạng của Bồ Tát Quán Thế Âm, người thỉnh thoảng vẫn được xem là biểu tượng Thái Lan . " ( http://vi.wikipedia.org/ ). 
Chúng ta đã khảo cứu qua các vị Thần của Trung Hoa, của Hin đu và Bà La môn Ấn Độ. Nay tiếp theo mạch , chúng ta khảo cứu tiếp về THẦN LINH VÀ BÙA PHÉP THÁI LAN . Các khảo cứu này do dienbatn sưu tập trong Huyền môn và trên Internet và biên tập lại làm tư liễu khảo cứu. Nếu có phần nào không ghi nguồn là do dienbatn không nhớ nguồn sưu tập - Xin các tác giả lượng thứ. Thân ái. dienbatn.
CÁC VỊ THẦN THÁI LAN.
MỤC LỤC.
1 HÌNH TƯỢNG NỮ THẦN TÀI LỘC , TÌNH YÊU - NÀNG KWAK.
2. PHÚC THẦN VOI GANESHA .
3. KUMAN THONG .
4. XÂM BÙA - SAK YANT.
5. BÙA TAKRUT VÀ THUẬT VÔ KIM VÀNG GOLD NEEDLE TAKRUT
6. BÙA DƯƠNG VẬT PALAD KHIK.
7. DẦU MA THUẬT ĐEN - NAM MAN PRAI .
8. MA THÁI LAN - NHỮNG CON MA NỔI TIẾNG.
9. NGẢI THÁI LAN - (  Black Magic Thailand ) .
10/  MỘT SỐ GURU HUYỀN MÔN THÁI LAN TIÊU BIỂU.
11. MỘT SỐ CÂU CHÚ ĐỂ SỬ DỤNG KHI TÔM BÙA THÁI - Kata Chanting.
12. NHỮNG BÀI KINH QUAN TRỌNG KHI SỬ DỤNG VÀ THỰC HIỆN BÙA THÁI .
13/ MA THUẬT ĐEN THÁI LAN .
14/ GIẢI THƯ ẾM TẠI THÁI LAN .
Tà thuật trù ếm và nguyền rủa có thể được sử dụng để hại người trực tiếp và gián tiếp. Người bị trù dập sẽ bị ốm đau, tai nạn, hay kể cả thiệt mạng. Trù ếm là một trong những tà thuật ghê sợ nhất, và rất ư là thông dụng ở dân gian. Mục đích trù ếm là để trả thù, hoặc để trấn an, bảo vệ một linh địa, một địa điểm chôn cất bảo vật hay nghĩa trang. Lời trù ếm có thể có hiệu lực ngay tức khắc, hoặc ngấm ngầm nhiều năm tháng. Có những lời trù ếm ám hại đến vài ba thế hệ, ảnh hưởng cả một đại gia tộc .  
Phương pháp trù ếm thông dụng nhất là dùng một hình nộm, tức là một tiêu biểu đại diện cho người bị trù. Hình nộm có thể được cấu tạo bởi sáp, đất sét, gỗ, vải hay giấy (những con rối nộm). Hình nộm sẽ được tác tạo giống hệt người bị trù ếm. Hình nộm càng giống đối tượng, càng có hiệu quả mãnh liệt.  Người bị trù sẽ chịu chung số phận với hình nộm của họ, khi bị đánh đập, hành hạ, xúc phạm, hủy diệt qua những hình thức đốt, đâm, bẻ gãy, nhận nước, xúc phạm bởi đồ dơ bẩn hoặc chôn xuống đất.
Tà thuật trù ếm, nguyền rủa, còn được những phù thủy, thầy bùa, thầy phép mang ra chợ đời buôn bán.  Những người này có quyền năng đặc biệt để mua bán tà thuật hại người cũng như để giúp người. Họ có thể ban phép miễn phí hay đòi hỏi phải có giá trả, có khi giúp ích cho công lý, có khi tạo thêm nghiệp ác. 
Rất nhiều người có khả năng sử dụng tà thuật trù ếm, nhưng tác động và hậu quả còn tùy thuộc bản lĩnh và quyền năng của từng phù thủy, thầy bùa, thầy phép được chiêu cầu. Phải là hạng cao tăng, sư thầy, giáo chủ, với đầy đủ quyền lực huyền bí mới thật sự đạt tới công lực cực kỳ lợi hại và nguy hiểm.  Thông thường những người nghèo khổ, bệnh hoạn, bất hạnh nhất của xã hội là những người hay cầu thầy để tìm công lý hay sự trả thù. Tự họ cũng có thể trù ếm nguyền rủa người khác, hiệu lực ghê gớm nhất là lúc họ trăng trối trước khi chết. 
Khi đối tượng bị trù ếm biết rằng họ đang bị ếm, sức khoẻ và tâm thần họ cảng bị suy sụp trầm trọng.  Chính sự lo sợ của người bị trù ếm khiến cho họ đau khổ và hoang mang gấp bội. Tuy nhiên, trong trường hợp bị phù thủy cao tay ấn dùng tà thuật ếm, dẫu đối tượng không biết mình bị trù dập, kết cuộc cũng có thể bi đát y như họ biết. Nếu đối tượng cảm nhận rằng họ bị ếm, họ có thể tìm đến các thầy phép khác để gỡ bùa, diệt trù, và thường thì phải hao tốn một số tiền lớn để đối phó. Có khi người thầy mà họ cầu, chính là người đã trù ếm họ. Nếu là hai lực lượng khác nhau đối chọi, một cuộc chiến tà thuật gay go có thể xảy ra. Bên nào quyền thế hơn sẽ chiếm ưu vị. Phương pháp gỡ bùa, diệt trù rất ư là quyền biến, không thể bàn hết ở đây. Một điểm đặc biệt lưu ý, những đêm rằm sáng trăng là lúc quyền năng trù ếm mãnh liệt nhất. Ngược lại, những đêm trăng khuyết là lúc để đối phó trừ diệt bùa phép, trù ếm, hiệu lực nhất.
Nói về bùa ngải người ta thường nói kèm theo là thư, ếm vậy thư ếm là gì? Thư là thường dùng hương, dùng bút, họa bùa để chữa bệnh hoặc đôi khi vì 1 mục đích nào đấy người ta sử dụng để hại người.
Còn ếm, người ta dùng các vật dụng của thân chủ hay người bị hại thổi vào đấy 1 thần lực hoặc một ma lực để chữa bệnh hoặc hại người. Thông thường ếm có thể được gửi lên mây, xuống mép nước, theo ngọn gió, trong bờ cỏ, dưới ngọn cây, v..v. Hoặc còn được làm vào gia súc như gà, chó, lợn, v..v. Những người làm được thư ếm thật ra phải là những thầy có công lực thật sự mới có thể thực hiện được vì thế việc giải thư ếm là cả 1 vấn đề và phải được 1 người thầy có đủ công lực của Phật pháp mới có thể giải ra được không phải ai cũng có thể làm được điều này. 
Thật ra, không cần vật dụng, thậm chí không cần biết tên tuổi của đối tượng pháp sư vẫn ếm được như thường. Việc ếm đối, không phải thổi vào đấy thần lực hay ma lực, pháp sư vận dụng ngũ hành sanh khắc hoặc lợi dụng vòng quay của từ trường thông qua linh phù và những phương pháp diệu dụng để "xử lý" đối tượng mà thôi. Người có đủ sức thực hiện phép ếm thường là mang sắc Hạ sư trở lên.
Phép ếm, bùa ếm là tên gọi chung. Phương pháp ếm thì đa dạng không lường, hình thức nào cũng độc cả: ếm lư hương, ếm bếp lò, ếm ngã ba đường, ếm nghĩa địa, ếm cột nhà, ếm bụng cá, ếm miệng chim... Tùy theo khả năng, mục đích, tâm địa của ông thầy và bổn mạng nguyên thần của đối tượng như thế nào thì cách ếm sẽ biến đổi như thế ấy...
Sở dĩ pháp sư sử dụng đến phép ếm là vì hám của, vì oan gia trái chủ, vì tự ái cá nhân, vì muốn khẳng định mình... tất cả không vượt ngoài cái TA quá lớn của mình.
Việc làm này vô cùng tổn âm đức. Những người thầy nào dụng tâm bất chính, sử dụng phép ếm để hại người, trong tương lai không xa sẽ gánh chịu hậu quả vì những điều mình tác tạo.
Phương pháp giải ếm cũng khá đa dạng... nhưng không ngoài quy luật ngũ hành sanh khắc. Riêng phép ếm bụng cá, ếm miệng chim thì phải nhờ đến Hà Bá, Sơn Thần giúp đỡ. ( Tamandieungo ).






LẤY ĐỒ THƯ ẾM TẠI MIÊN .


TRỤC VONG TẠI THÁI LAN .

Tìm hiểu về phép luyện bùa Lỗ Ban

 Có người tin rằng đọc niệm kinh Phật sẽ làm tăng sức mạnh Bùa chú của mình…mặc dù đọc kinh Phật bằng chữ Nho nên chẳng hiểu gì sất !?...Vả lại Phật cũng không hề kêu gọi đọc niệm loại bùa chú nào để làm cái chi !....Nhưng xét kỉ lại ta thấy là những người niệm kinh nầy thường giữ được nhiều hoặc ít các giới tuân thủ của nhà Phật cho cư sĩ tại gia như > không sát sanh-không nói dối-không trộm cắp-không tà dâm-không nghiện say…hình như chính những điều ấy đã góp phần làm bùa chú của họ linh thiêng chăng ?..Hay lí do cảm thấy linh thiêng ấy chỉ là xác suất tình cờ được lập đi lập lại ???




Yếu tố của sự hành pháp ấy xem ra chẳng phải đơn thuần chỉ dựa vào niềm tin …linh bất linh tại ngả…mà nó còn phụ thuộc vào sự công phu của hành giả …tức là sự tu và luyện…tu là tu bằng cái giới luật phật như nói trên …luyện là luyện cái ý trí của mình tập trung vào đề mục đối tượng nhất định nào đó …như 1 câu âm thanh vô nghĩa lập đi lập lại mãi…kèm theo 1 hình thể chữ  Nho (với bùa Lỗ Ban) hay hình kỷ hà học (với bùa 5 Ông ,bùa Xiêm, Miên…)…

Ngoài ra còn hệ thuộc vào tư thế ngồi hay đứng tuỳ môn …không phải chỉ dựa vào năng lực ý chí bản thân tự lực mà phải có phần tha lực …tức là đem đi hay trao đổi với bên ngoài bản thân mình….Ví dụ đơn giản nhất là trao đổi quang sắc …quang sắc đơn giản là của ánh sáng lửa đầu cây nhang …hay cao cấp hơn là quang sắc của mặt trăng hay mặt trời….hiếm hoi hơn là quang sắc của sấm chớp…ráng trời…cầu vòng…loại quang sắc đặc biệt là của lúc nhật thực…thật là hiếm có.

Số chu kỳ khổ luyện hay dựa vào hệ số ngày lẻ như 3-5-7-9-21-49-72-100…có người cho là hệ số nầy thuộc dương…..bây giờ tổng kết lại thì ta thấy người xưa luyện bùa chú không hẳn là mê tín -tự tưởng …mà chính là kết hợp lực tính âm dương vũ trụ vào cơ thể mình…tự biến mình thành 1 loại pin-ắc qui…để phát lực sản sinh ra theo ý muốn !


Có thể ngày xưa người ta không có phân tích lô gích lí thuật suông như trên…mà đơn giản chỉ là nghe-thích-muốn -luyện-làm….nhưng ngày nay trước khi mình nhập vào 1 học thuật kì bí nào đó …chí ít cũng cần xét qua tính chất để khỏi sa vào vòng ràng buộc thái quá của mê tín dị đoan ….


Xin giới thiệu về sưu tầm pháp thuật chữ DI…chử DI đây là chữ Nho viết trại đi theo lối tượng hình ẩn nghĩa kì bí ….được cho rằng ai khổ luyện nó sẽ có thể dùng nó để cầm máu …để trị sưng đau…trị mụt nhọt ….và cao hơn nữa là trị hay cấm kẻ xấu khác vào nhà hay vườn tược mình mà trộm cắp hay quấy phá thành quả lao động của mình .


Đầu tiên ta hãy quan sát kỉ hình chử DI được viết với thứ tự ra sao ?.. Điều nầy cũng giống như sự hình thành của 1 loại sự sống được bắt đầu và đến trưởng thành ra sao ….

Khi luyện ta cần quán tưởng các nét theo thứ tự như trên .

Khi quán tưởng ta cần niệm thần chú song hành với quán tưởng,tức là khi quán xong chữ phù cũng là niệm xong bài thần chú ,cứ như mà lập đi lập lại đến kết thúc buổi tập.

Thần chú khi tập và cũng để khi sử dụng.

< Án niên cấm - nguyệt cấm - nhật cấm - thời cấm .

Án hoả nhiệt cấm - ung thư cấm - huyết ly cấm .

Ngô phụng hội đồng Lỗ Ban cấm.

Tí Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi,

Giáp Ất - Bính Đinh - Mậu Kỷ - Canh Tân – Nhâm Quí.

Cấp cấp như nhật lệnh cấm.>>


Ngày khởi sự  >buổi tối lúc 11giờ >ngày trăng tròn.

Ngày kết thúc >buổi tập cuối kết thúc vào ngày trăng tròn kì sau …

Ví dụ tập ngày 1 âm lịch…kết thúc vào ngày 15 âm lịch..là 15 ngày tất cả.



Chổ tập-ngồi xếp bằng bất kể hướng  >bất kì …miễn là không để gì làm rộn trong khi tập.

Tập không gián đoạn hàng đêm..trước khi tập đốt 1 cây nhang để cắm trước mặt trên 1chén gạo…ngó ngay đầu cây nhang ấy mà tưởng phù-niệm chú .


(khi tập mãn ngày rồi giữ lại chén gạo ấy để trên cao mà thờ , thắp nhang buổi sáng -buổi chiều tối xin Tổ sư phù hộ cho phù linh hàng ngày.)


Lúc tưởng niệm như vậy hơi thở cần thật nhẹ và êm…tưởng chữ phù hiện ở đầu cây nhang …khi đủ nét rồi mình hớp hơi vào …tưởng như đem phù vào vùng rốn….tập cỡ 20 phút hay 30 phút là đủ trong 1 buổi tập.


Tiết lộ cho kẻ khác là mình đang tập có thể hư tất cả pháp tập của mình.


-----Kết thúc chu kì tập nầy có thể là 15 hay 21 ngày tuỳ ý …không phụ thuộc vào mùa trăng cũng được….người ta tin rằng bạn có thể dùng 3 cây nhang đốt lên hoạ bóng phù lên chỗ đau …sau đó thổi khói hương vào chỗ đau 3 lần….mụt nhọt hay chỗ sưng bầm hay chỗ bị dời ăn sẽ mau chóng khỏi bịnh…..nếu không có nhang thì dùng 3 lá trầu xếp lại đơn sơ như hình cái mũi dùi nhọn rồi lấy đầu nhọn đó mà vẽ bóng bùa lên chỗ đau…rồi cũng thổi 3 lần vào chỗ đau…..Nếu không có nhang hay trầu thì chỉ cần vẽ bùa tưởng tượng bằng đầu đầu lưỡi của mình nhằm vào chỗ đau…rồi cũng thổi 3 lần vào chỗ ấy .

Muốn cầm máu đương chảy thì niệm chú hoạ phù bằng lưỡi thổi thẳng vào chổ vết thương 3 lần …lại hoạ phù bằng lưỡi vào lòng bàn tay phải rồi áp lên vết thương ..nín thở niệm chú …từ từ giở tay lên …có thể làm liên tục vài lần cho máu bớt chảy lại rồi băng bó vết thương…..Dĩ nhiên nếu vết thương sâu quá hay làm đứt động - mạch bên trong thì phải cầm máu tạm thời rồi mau đưa nạn nhân đến chỗ y tế sơ cứu gần nhất kịp thời chữa trị ….Ở đây chúng ta chỉ đóng vai trò tạm lúc chưa có phương tiện y tế cấp cứu kịp thời cho nạn nhân.

Khi hành pháp trị cần có mặt trời hiện diện, tốt nhứt là không nên hành pháp từ lúc 3 giờ chiều trở đi …bịnh sẽ lâu khỏi vì thiếu Thái Dương hỗ trợ .

Bây giờ chúng ta nói về 1 pháp cao hơn pháp trên …


Pháp sau nầy không những trị được những chứng của pháp trên như cầm máu-trị ung nhọt-trị sưng đau-trị trặc gân-trị dời ăn-trị lở tay chân …..mà còn có thể Hộ thân cho mình và cho người….có thể cấm trị gian nhân vào nhà hay khu vực riêng tư của mình. Ngày xưa người ta dùng pháp nầy để những kẻ hái trộm hoa quả không thể vào hay là vào rồi không thể ra khỏi khu vườn…cứ quanh quẩn cho đến khi bị phát hiện mà thôi ….Lí do nào kẻ xấu không thể vào thì không thể hiểu được…nhưng 1 số kể lại là bị choáng ngất …bị thấy có người làm dữ….bị nóng lạnh hành …nghe có tiếng nạt làm sợ hãi……

Cách luyện:

- Cũng luyện cùng đạo phù trên…nhưng luyện buổi sáng với mặt trời nhú lên cỡ 15-20 phút …và buổi tối với mặt trăng…nếu không có trăng hãy nhằm vào vì sao nào sáng nhất mà luyện……cần khổ luyện với 49-72-hoặc 100 ngày liên tục sẻ thành tựu ….ta nên chọn mùa nắng để tập là tốt nhất ….luyện với đèn hay nhang thì ta ngồi xếp bằng….luyện với nhật nguyệt thì ta đứng thẳng người chấp 2 bàn tay khít lại để trước ngực như cầu nguyện.


Sử dụng-sau số ngày ấn định ta sẻ thành tựu với mức độ nào đó .


Hãy áp dụng như sau cho từng trường hợp …>>>.

Trị bịnh…..như phần trên đả nói.

Trị ma tà …..vẻ bùa bằng mực tàu pha Thần sa ,vẻ trên giấy màu vàng,nhẹ thì dán trước cửa vào nhà…nặng thì dán trong phòng lớn nhất của nhà ,và dán 4 lá trên 4 bức tường,lá nầy đối diện lá kia.


Hộ thân cho người…lấy 3 cây nhang đốt lên khoán trước ngực họ ,thổi 3 lần…rồi sau lưng củng làm y vậy….công dụng yếu thì trong 1 ngày…mạnh thì 3 ngày…đủ thời gian đi và về cần thiết .


Giữ  nhà ….dùng đầu ngón cái chân phải vẽ bùa trên mặt đất ở trước tất cả cửa đi vào nhà …công hiệu 24 giờ .


Giữ vườn…..dùng đầu ngón chân cái khoán ở cửa vào vuờn trước tiên….sau đó cũng làm vậy với 4 mé vào vườn của ta …chỗ giáp ranh giữ đất mình và bên ngoài đất ….công hiệu 3 ngày đêm.


Nếu khổ luyện đủ nhật -nguyệt thì có thể hành pháp bất kể ngày hay đêm bất kị ngày giờ.


Đi vào chổ có yếm đối hay đất có ma tà –hung Thần …trước khi vào nên dùng ngón chân cái vẻ bùa trên mặt đất …rồi đứng trên bùa độ 3 giây…sau đó hảy vào.


Hoá giải thư ếm hay bùa ngải khác hại người-nếu bị không quá 3 ngày-lúc giờ ngọ,từ 11g đến 1giờ trưa…đốt 3 nhang khoán bùa trước ngực người ấy 3 lần- lại dùng nhang ấy mà trở lại khoán bằng chân nhang 3 lần vào lưng- cuối cùng vẻ buà bằng ngón chân cái ,kêu họ bước vô đứng trên bùa ấy …khoán bùa vào 1tô nước lớn ,xối từ từ trên đỉnh đầu họ xuống chân ……nếu ăn uống mắc phải Đồ ếm sẻ ói ra hay đại tiện hay trung tiện ra ngay …là khỏi bịnh.


Người xài bùa nầy và kẻ nhờ bùa nầy phải cử ăn thịt trâu-chó- mèo-cá chép-cá không có vảy và luơn-ếch-cử ăn trái khế chua –không ăn con gà lông đen….và tuyệt đối không được chửi thề …uống say….sẻ bị lạc phép .


Phép nầy luyện không cần làm lể nhập môn hay hứa thề gì hết –không bao giờ bị ông ứng bà hành gì hết –không bao giờ bị vong hồn theo phá-không bị ma quỉ khuấy trong lúc ngủ mơ- ……chỉ cần ăn ngay ở thẳng,kính trọng cha mẹ ông bà và bậc trưởng thượng,khiêm nhường với anh em bậu bạn…..không hành hạ thú vật .


Còn nghe rằng bùa nầy dùng trong nhiều việc khác nửa mà không nghe cách dùng ra sao …có thể tuỳ theo kinh nghiệm của từng người áp dụng vào công việc.


phép nầy được 1 giáo dân công giáo lớn tuổi (hơn 60t) truyền lại , ông đả tập trên 30 năm ,và mổi năm vẩn tập lại 100 ngày….từng chửa trị cho rất nhiều người trong và ngoài đạo …đối tượng được chửa trị không cần theo 1 tôn giáo hay tín ngưởng nào …chỉ cần không chửi thề và ăn ở cho tốt với mọi người …..nếu bịnh lâu khỏi cần tự sám hối nhửng lổi lầm quá khứ của mình …bịnh sẻ mau chóng thuyên giảm .


Đó là những lời dặn dò cuối của người người truyền pháp vậy……

Người đăng: Hỏa Phượng Hoàng vào lúc 08:47 Không có nhận xét nào: 

Gửi email bài đăng này

BlogThis!

Chia sẻ lên Twitter

Chia sẻ lên Facebook

Chia sẻ lên Pinterest

Thuật Phân Thân - Phân Thân Giải Ách Thuật

Thuật phân thân là phép thuật nhân ra  nhiều bản thể giống nhau y hệt với hình dáng của vật thể ( có thể là con người, đồ vật, con vật), thuật phân thân có thể giúp tránh thoát khỏi sự truy lùng của kẻ thù, nhưng lạm dụng khi gặp khó khăn sẽ không còn linh nữa.


Phàm hành giả muốn luyện thuật này phải chọn vị trí đắc địa trong 1 khu rừng ở trên núi mà ít người lui tới, có thể yên tĩnh tu luyện hàng ngày. Mỗi ngày vào giờ Thìn bắt đầu hành sự tu luyện.  Đi về phương Bắc, tìm 1 cái cây cao thẳng đứng vững chắc,  có kích thước cao tầm 19inch, lóc 1 miếng vỏ cây thành hình chữ nhật. 


《紫微中天》民间法术——“七步尘技”


Chuẩn bị 2 tờ giấy vàng để vẽ bùa, kích thước tờ giấy phải cùng kích thước với lớp vỏ cây hình chữ nhật được lấy ra và khớp với phần vỏ bị cắt ra trên thân cây. Đem 2 đạo bùa dán lên phần mặt trước và mặt sau của miếng vỏ cây hình chữ nhật. Đốt 1 đạo bùa thành tro.Định tâm vẽ đạo phù đầu tiên, tập trung quán tưởng vào hình tượng trên bùa đọc thần chú sau:


“Thái ất đế quân, tứ giới thống thần, truyền ngã tiên thuật, giải ách phân thân, siêu thế độ hóa, vạn vật tùy tâm, du du mộng mộng, hư huyễn thành chân”


Đọc thần chú và ý niệm nuốt thần chú vào bụng nuốt khí xuống đan điền 7 lần, nhả khí 7 lần lên bùa, sau đó đọc thần chú này 7 lần:


“Ngũ phương đại đế, thái thượng lão quân, nguyên thủy thiên tôn, ngọc thanh thái vũ, chỉ vật hóa thân, trừu khứ chân hình, đào khu hóa nan, dĩ bảo vi linh”


Cuối cùng, gõ răng 49 lần. Thực hành như vậy trong 49 ngày liên tục. Mỗi ngày là tìm luyện 1 cây khác nhau, không được trùng lặp. Y theo pháp như vậy là 49 ngày luyện 49 cây khác nhau.


Muốn sử dụng, vẽ 1 đạo bùa Hóa thân phù rồi dán lên đối tượng muốn phân thân, đọc thần chú 7 biến. Đối tượng sẽ phân thân và trở thành 1 hóa thân của chính nó. Thân thể hành giả cũng có thể phân thân và đi lại hoạt động y như bản thể chính.

Người đăng: Hỏa Phượng Hoàng vào lúc 08:26 Không có nhận xét nào: 

Gửi email bài đăng này

BlogThis!

Chia sẻ lên Twitter

Chia sẻ lên Facebook

Chia sẻ lên Pinterest

Thuật đằng vân - Cưỡi mây đạp gió

Phép cưỡi mây , là một phép đi đến cảnh Tiên Giới , hành giả cần thành tâm tu luyện , mới có thể thành công .

Hành giả tu tập phép nầy cần chọn ngày Lập Thu ( Bắt đầu mùa Thu , vào ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch tùy theo từng năm), giờ chánh ngọ ̣(Chánh Ngọ là đầu giờ Ngọ, tức là lúc 12 giờ trưa), ra cửa đi về hướng Bắc , tìm một bãi đất có trồng cây Cao Lương ,tìm chặt 49 cây , mổi cây có 7 đốt , dài 7 phân ; đem về nhà , đặt ở nơi mát , đầu cây đặt hướng về phía đông , đuôi cây đặt hướng về phía Tây , không cho ai thấy được nó .

Không có văn bản thay thế tự động nà o.

trận đồ thất tinh bắc đẩu

Đợi đến giờ Tý nửa đêm ( Giờ Tý tức là từ 0 giờ đến 2 giờ khuya. ) , đem 49 cây chia thành 7 nhóm , mỗi nhóm 7 cây , cắm đầu cây hướng xuống đất , đuôi cây đặt hướng lên trời , mỗi nhóm sắp bày thành hình chòm sao bắc đẩu , sau đó bảy nhóm cây sao Bắc Đẩu nhỏ này , lại sắp thành hình chòm sao Bắc Đẩu lớn , mà cán đuôi sao Bắc Đẩu lớn này hướng về phương Bắc , mỗi cây cách nhau 7 phân , các nhóm cây sao Bắc Đẩu của mỗi nhóm cách xa nhau 49 phân ( như hình 1)

Khi cắm mỗi cây xuống đất , hành giả liền mặc niệm chú ngữ :

"Kiền nguyên bắc đẩu , thái thượng thần huy , bố vân phúc khí , vạn tà bất thôi , siêu ngã thành tiên , độ ngã kim thân , thất thất tu luyện , đạp vân thăng thiên"

Niệm một hơi ba lần câu chú trên .

Ngày hôm sau , chuẩn bị một cái bàn bát Tiên

Trên bàn để Chu Sa , Bút Mực Tàu , giấy vàng ...đến nửa đêm giờ Tý , hành giả đứng giửa chòm Sao Bắc Đẩu lớn , mặt hướng về phương Bắc , miệng niệm câu chú trên 49 lần và vẽ một đạo bùa Huyền Không Phù ( hình 2)


Không có văn bản thay thế tự động nà o.

Huyền không phù

Xong hít khí của sao bắc đẩu ( Tức mặt hướng về hướng phía sao Bắc Đẩu trên trời , miệng hít một hơi dài ) thổi vào chữ bùa trên , đem lá bùa nầy dán lên đốt giữa của cây cắm trước nhất , xong nhổ lên cây nầy lên và đem đặt dựng đứng lên cây cắm cuối cùng nhất , tức đầu cây cắm lúc đầu đem đặt dựng đứng trên đuôi cây cắm chót nhất , hai cây nầy dựng đứng , cây trên không được ngã rớt xuống , sau đó vẽ thêm hai đạo bùa Phi Vân Phù ( hình 3)

Không có văn bản thay thế tự động nà o.

Phi vân phù

Lại lấy khí Bắc Đẩu thổi vào , xong dán vào mỗi gan hai bàn chân phải và trái , mổi bàn chân một đạo bùa nầy và mặc niệm trong tâm ( Tức tưởng tượng trong đầu) , ở dưới hai chân mình có một đám mây màu xanh da trời nâng hai chân lên , đồng thời tưởng tượng mình nương vịn vào cây Cao Lương dựng khi nảy để mà năng mình lên cao ....


Cứ theo cách trên mà tu tập , mỗi ngày theo thứ tự , tuần tự lấy cây thứ hai , dựng lên cây thứ nhất .......cứ thế mà dựng cao lên mỗi ngày thêm một cây , theo phương pháp như trên ; sau 49 ngày , tức các cây sẽ được dựng thẳng đứng lên như một cái thang dài , hành giả có thể vịn cây thang nầy mà lên tới đỉnh cao , rồi từ đó mà tự nhiên cơ thể hành giả sẽ có thể bay bổng lên , như thể cưỡi mây mà bay lên trời vậy .

Hành giả không được cho ai thấy biết , trong lúc mình tu tập ; đặc biệt là đàn bà con gái có thai càng kỵ lai vãng gần nơi người tập ....Nếu không phép nầy sẽ bị phá ngay.....

*** Đôi điều nhận xét về thuật đằng vân:

Nếu là người đã từng có sở đắc cao về huyền học và khoa học Đông Tây , thì sẽ nhận ra đây là bí thuật cổ nhân đã khổ công suy nghĩ và tìm ra được sự giao tiếp , cảm ứng với tính phản từ lực của khoa học tâm sinh lý trong tâm thân con người và trường lực cùng phản trường lực của vạn vật với địa từ trái đất ......

Từ các việc như : vào ngày mùa Thu , Giờ chánh Ngọ , đi về hướng Bắc , chọn Cây Cao Lương , Giờ Tý , 49 cây , mổi cây 7 đốt , 7 phân , sắp cây theo hình chòm sao Bắc Đẩu ..........

Thì có thể những chi tiết này ứng dụng vào những ngày giờ nầy và phương hướng Bắc từ trường trái đất tác dụng nạp từ trường mạnh vào các vật dụng và tâm thân con người cho thích hợp cho việc luyện thuật đằng vân khinh thân ....

Tại sao cổ nhân không tìm cây nào khác , mà phải dùng thân cây Cao Lương mà luyện phép Đằng Vân Kinh Không nầy , thì có lẽ cây Cao Lương vào ngày giờ đó , ở hướng đó , có thể hấp thụ từ trường mạnh và khi cắm cây xuống đất , đầu cây Cao Lương cắm xuống đấ̀t , đuôi cây hướng lên trời , tức làm đảo ngược từ trường của cây và địa từ , vì thế khi dựng cây này lên cây kia nó sẽ có tác dụng như thanh nam châm có cực nam và bắc , do đó từ trường của hai cây khác từ tính thì cây sẽ hít vào nhau , để cây có thể dựng thẳng đứng lên mà không bị ngã xuống , nên 49 ngày sau , hành giả sẽ có một cái cây thang dài do 49 cây Cao Lương dựng thành ....

Việc vẽ bùa Huyền Không Phù dán vào đốt giữa mỗi cây Cao Lương , là hành giả dùng Tâm lực của mình , để hấp thu lấy một số trường lực không gian , một công thức trường lực thích hợp và nạp năng lượng nầy , vào cây Cao lương để phối hợp và làm tăng cường từ trường của Cây nầy vậy ....

Việc vẽ bùa Phi Vân Phù dán vào gan hai bàn chân của hành giả cũng cùng một nguyên lý trên , cộng thêm sự đọc chú để tâm hành giả được chuyên nhất , không có tạp niệm , hầu đi vào đại định , sau khi đi vào đại định, hành giả chuyển sang quán định để quán tưởng , như dưới chân có đám mây xanh ,

đồng thời nương vịn vào cây cao lương mà nâng mình lên cao , việc làm này có hai tác dụng , khi tâm con người đã vào đại định và chuyển sang quán định , thì các phản ứng hoá học nội tiết trong cơ thể , sẽ có tác dụng làm thống nhất các cực trường lực nam châm sinh điện từ của các tế bào cơ thể̃ , thống nhất thành một hệ thống trường lực mạnh ,

có hai cực âm dương sinh điện từ phân định trong cơ thể và sẽ gây phản cực với địa từ trái đất , cộng thêm sự tiếp lực của cây thang thực điện từ của cây Cao Lương , qua hai trợ lực trên , sau một thời gian tập hành giả có thể nhờ sự kiên trì với tâm thành khẩn cùng sự cải cách , bổ sung ,thay thế , loại bỏ các yếu tố thất bại , tăng cường tích cực các yếu tố thành công trong sau các buổi tập , nhờ vào tự và tha lực ..... thì một ngày nào đó , sự thành công sẽ đến với hành giả là điều tất nhiên vậy ...

Còn trong lúc tập , cấm không cho ai thấy , là tránh hành giả bị phân tâm , bị người ngoài dị nghị quấy phá , can thiệp làm gián đoạn việc tu tập của hành giả khiến chân khí không phát khởi để làm từ trường sinh học cơ thể mạnh lên được , mà còn suy yếu thêm .....cấm đàn bà có thai lãng vãng gần nơi tập , vì đàn bà có thai thuộc từ trường cực âm , trong bụng đang chuẩn bị hấp thụ từ trường thông tin thích hợp nạp vào thai nhi để hình thành một sinh mạng mới ...do đó sẽ làm dao động và hút mất dương khí từ trường sinh học cực dương của người đang tu tập .....

Một điều cần chú ý , hành giả trước khi tập , cần cầu nguyện vị hộ pháp trong tín ngưỡng của mình bảo vệ trong khi tập , và chỉ cộng tác với những trường lực thông tin nào của vũ trụ linh giới giúp hành giả thành công trong việc tập mà thôi ...sau khi tập xong cần hồi hướng công đức và tiễn Thần... về nơi cũ .....

Nếu sau một thời gian tập , dù thành công hay thất bại , hành giả cũng không nên vui mừng hay buồn phiền gì cả , mà luôn giữ tâm bình thường , làm tròn bổn phận của mình đối với gia đình và xã hội, giữ tâm luôn an lạc tỉnh thức và vui vẻ trong sinh hoạt , đúng theo qui củ và giữ đúng luật pháp , trật tự của xã hội hằng ngày mà mình đang sống là điều cần thiết nhất ....

Việc gia đình là quan trọng làm trước , hiếu trên , nhường dưới , trung , hiếu , lề̉ , nghĩa , trung dung tích cực , là điều nên giữ vững .....còn việc tu tập huyền thuật là học thêm thôi .... Được như thế , là ta đã ung dung ngao du hai cảnh trời người rồi đó .....

Hoàng Cơ đạo và thầy Mười - vị chân tu ẩn sĩ ( thanh y Hoàng Nguyệt)

 Đọc nhiều sách về Huyền thuật , về các tín ngưỡng tâm linh  , được cơ hội tiếp xúc nhiều cao nhân ẩn sĩ nhưng trong tôi cứ trăn trỡ mãi về một nhân vật khó hiểu: Đó là Hoàng Phong . Không biết tự bao giờ, hình ảnh về một con người tài hoa, cô độc đã ngấm sâu vào góc sâu nhất trong tâm hồn của tôi. Hoàng Phong là pháp danh của ông khi theo đạo Hoàng Cơ , còn tên thật của ông thì không ai biết chỉ nghe mọi người xung quanh hay gọi ông là ông Mười .

Ông là trưởng môn đời thứ 7 của Hoàng Cơ Đạo . Ông bái sư ở Bình Định sau năm 1970 ông vào đất Khánh Hòa sinh sống  , cùng thời của ông có những đạo khác cùng truyền bá giáo lý thu hút tín đồ như đạo cao đài , đạo champa liên hoa , đạo hòa hảo …. Vùng biển hòn khói vào những  năm đó là nơi thịnh đạo và không ít những chuyện ly kỳ diển ra cho tới bây giờ vẫn còn nhắc lại ….



Thời điểm giao thoa giửa chiến tranh và hoa bình vào giai đoạn này có rất nhiều người vì phải tự bảo vệ mình tư lợi riêng mà lập ra các băng hội các nhóm người , ngày thì ngủ đêm thì đi cướp trộm cắp …
Nổi cộm nhất là băng cướp ở cầu Bóng và nhóm anh em nhà Lê - Chẻo
lợi dụng chiến tranh hai băng nhóm này thu lượm súng đạn tập hợp những thành phần du thủ du thực luyện võ đi cướp bóc , chúng càng ngày càng cướp trắng trợn không ai dám chống lại , dân làm bao nhiêu  phần đều đóng nạp cho chúng 6 phần , ở cái thời bao cấp ấy thì dân rất khổ đi buôn cũng phải trốn tránh thế dụ nhà nước buôn bán không được bao nhiêu lại bị cướp , dân chài thì có bao cá tôm đều phải dâng cho chúng …. Cuộc sống đã khổ nay càng khổ hơn .

Hoàng Phong lúc bấy giờ đang truyền đạo ở đây vì thấy cảnh nhân sinh thống khổ mà ông đau lòng , ông quyết định một mình dẹp yên bọn cướp ,
chỉ trong một đêm ông tay không một tất sắt đi vào hang ổ bọn cướp Lê – Chẻo đánh cho chúng chạy tán loạn ,  tại Nha Trang cầu Bóng ông bắt sạch toàn bộ bọn cướp xóm Bóng  trả lại bình yên cho dân chúng .
Mặt dù ông không tiếc lộ danh tính khi truyền đạo nhưng trong đám cướp có kẻ biết ông , không ít kẻ van xin và ông tha cho , chúng sợ lắm khi ai đó nói lên thầy Mười là chúng cứ xanh mặt mà bỏ đi như bị ma đuổi .

Lại nói đến truyền đạo các đạo giáo hay tranh giành truyền bá giáo lý thu hút tín đồ mà dùng bùa chú để hại nhau , rồi có khi còn tập kích nhau đấu tranh vũ lực để xóa sổ đạo khác …
Ông cũng từng bị đạo khác phục kích đánh lén  nhưng họ đều thất bại , không ít lần ông đi giải thư yếm cho người dân , có người còn thấy ông xuất hồn đi vào nhà để chửa trị cho người nhà bị bệnh , đến bây giờ ông vẫn là bí ẩn một giai thoại …

Với tôi thì ông như một vị thánh sống , tôi có cơ hội gặp ông hai lần nhưng ông đều từ chối chấp nhận tôi làm đệ tử , ông chọn đồ đệ nhập môn rất khắc khe , cho tới bây giờ theo tôi biết thì chỉ có nhận 5 đệ tử là Hoàng Thiên , Hoàng Vân , Hoàng Liệt , Hoàng Vũ và Hoàng Trí .

Mỗi người đồ đệ với ông là một giai thoại riêng , quả thật là danh sư xuất cao đồ vậy . Ông người có vẻ ngoài rất đơn giản dân giả , mọi người thường thấy ông duới bộ dạng một người đội nón đeo túi vải nhỏ trên vai hay đi hái thuốc trong núi .

Bên ngoài không khác gì nông dân nhưng tiếp xúc thì ôn hòa nhã nhặn kiến thức rộng lớn và mênh mông như biển , đặc biệt ông rất giỏi võ công tôi cứ nghỉ ông là tủ sách võ di động ,tuy tôi không được ông nhận làm đồ đệ nhưng vì tôi có duyên với ông lần thứ hai tôi gặp , ông có chỉ cho tôi bộ thiết sa chưởng tuy bộ võ học này nhỏ bé không so được với các đệ tử của ông nhưng cũng đủ để tôi phòng thân và rèn luyện sức khỏe .
Tuy nhìn ông nông dân chất phát nhưng bên trong con người ông lãng mạn vô cùng ,cầm kỳ thi họa, kỳ môn độn giáp, môn nào ông cũng là đại tông sư. Thậm chí ngay trong võ học, ông cũng tự mình sáng tạo ra hầu hết những lộ võ công lợi hại như Nhiếp tâm quyền ,song kỳ kiếm … 
Khi chửa bệnh cho một bé bị tật ở chân , em bé ấy phải đi bằng nạn gổ  ông đã sáng tạo ra Địa Tảo Hoành Thoái , bộ cước pháp dành cho các bé bị tật ở chân khi tập luyện lộ thân pháp này, đôi chân tàn tật sẽ hồi phục dần dần và có thể đi lại được.Tài năng xuất chúng của ông  trong đủ mọi lĩnh vực tôi rất khâm phục ông, tôi chọn Hoàng cơ đạo là nơi dừng chân cuối cùng trong hành trình tầm đạo của mình vì ông Mười đã ám ảnh tôi cả 1 đời .....
Nguồn Hoàng Phượng Hỏa