THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Training feng shui, certificates are only valid for feng shui students who finish the course.

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Organize feng shui and martial arts certification exams for individuals and units who have needs

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Associating with individuals and organizations operating: feng shui, martial arts, culture and art

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Provide feng shui items

THIEN UY CENTER FOR FENGSHUI

-Receive support for all services and issues related to feng shui yin: tomb, code, spirituality

Translate

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2025

Hãy cảnh giác với những kẻ luôn miệng nói nhân nghĩa và tình cảm

 Hãy cảnh giác với những người luôn miệng nói về nhân nghĩa, tình cảm nhưng âm thầm trục lợi






Trong đời sống xã hội, “nhân nghĩa” và “tình cảm” vốn là những giá trị cao quý, được xây dựng và gìn giữ qua nhiều thế hệ. Người Việt Nam từ xưa đến nay luôn đề cao đạo lý sống, coi trọng nghĩa tình, đặt chữ tín, chữ hiếu, chữ nhân lên hàng đầu. Tuy nhiên, cũng chính vì sự trân trọng này mà không ít kẻ đã lợi dụng, mượn danh nghĩa nhân nghĩa – tình cảm để che đậy âm mưu vụ lợi. Đây là hiện tượng cần phải được cảnh giác, nhận diện và lên án một cách nghiêm khắc.


Lời nói hoa mỹ – tấm màn che ý đồ


Điều dễ nhận thấy là những người có thói quen luôn miệng nói về nhân nghĩa, tình cảm thường rất khéo léo trong lời ăn tiếng nói. Họ giỏi tạo dựng hình ảnh tốt đẹp về bản thân: nào là quan tâm, sẻ chia, hết lòng vì người khác. Họ biết cách đánh trúng tâm lý người nghe bằng những câu chuyện cảm động, những triết lý đạo đức tưởng chừng như thấm đẫm tình người.


Thế nhưng, nếu quan sát kỹ, ta sẽ thấy hành động của họ thường không đi đôi với lời nói. Họ có thể dùng lời lẽ nhân nghĩa để lôi kéo người khác vào sự tin tưởng mù quáng, trong khi mục tiêu thực sự lại là tìm cách trục lợi: lợi ích vật chất, sự ủng hộ, hay một vị thế xã hội nào đó. Chính sự chênh lệch giữa “lời” và “việc” ấy là dấu hiệu cảnh báo đầu tiên.


Đánh vào lòng tin – chiêu thức muôn đời


Trong xã hội, tình cảm và nhân nghĩa luôn được coi là điểm tựa của mối quan hệ con người. Ai cũng mong được đối xử chân thành, ai cũng dễ mềm lòng trước những lời tử tế. Lợi dụng điều đó, những kẻ giả nhân giả nghĩa thường xây dựng “vỏ bọc đạo đức” để tạo niềm tin nơi người khác. Một khi niềm tin đã hình thành, họ dễ dàng thao túng, dẫn dắt, thậm chí buộc người khác phải làm theo ý họ mà không cần cưỡng ép.


Đây là thủ đoạn tinh vi, bởi nó không trực diện mà len lỏi qua cảm xúc, tình cảm. Người bị lợi dụng nhiều khi không nhận ra cho đến khi đã rơi vào thế bị động, mất mát cả về vật chất lẫn tinh thần.


Hệ quả nhãn tiền – mất niềm tin xã hội


Hậu quả lớn nhất không chỉ nằm ở thiệt hại cụ thể mà còn ở sự suy giảm niềm tin giữa con người với nhau. Khi bị lừa gạt bởi những kẻ giả nhân giả nghĩa, nhiều người trở nên cảnh giác cực đoan, không còn tin vào lòng tốt thật sự. Xã hội vì thế dễ trở nên lạnh lùng, khép kín, thiếu sự sẻ chia vốn là nền tảng của đời sống cộng đồng.


Đây là nguy cơ nguy hiểm hơn cả: sự tha hóa đạo đức không chỉ hủy hoại cá nhân, mà còn gặm nhấm dần các giá trị xã hội. Một cộng đồng mất niềm tin lẫn nhau sẽ khó bền vững, khó xây dựng sự phát triển lâu dài.


Cần bản lĩnh để phân biệt


Để không trở thành nạn nhân, mỗi người cần rèn luyện sự tỉnh táo và khả năng phân biệt. Đừng vội tin vào những lời lẽ hoa mỹ, hãy nhìn vào hành động cụ thể. Người thật sự nhân nghĩa sẽ không cần phô trương, họ thể hiện bằng việc làm nhỏ bé nhưng bền bỉ, chứ không bằng những lời sáo rỗng.


Hãy đặt câu hỏi khi thấy ai đó quá hay nói về đạo lý, nhưng hành động lại có dấu hiệu mâu thuẫn. Hãy giữ ranh giới rõ ràng trong các mối quan hệ: tôn trọng tình cảm nhưng không để cảm xúc che mờ lý trí.


Xã hội cần lên án và cảnh tỉnh


Bên cạnh sự cảnh giác của mỗi cá nhân, cộng đồng cũng cần lên án mạnh mẽ những hành vi lợi dụng nhân nghĩa để trục lợi. Sự giả dối, lừa lọc không chỉ là vấn đề đạo đức cá nhân mà còn là nguy cơ gây ra những hệ lụy xã hội. Khi những kẻ ấy bị vạch trần, lên án, và bị loại trừ khỏi sự tin tưởng chung, thì xã hội mới có thể bảo vệ những giá trị chân chính.



---


Kết luận


Nhân nghĩa và tình cảm là những giá trị không thể thiếu của đời sống. Nhưng cũng chính vì chúng cao quý mà càng dễ bị lợi dụng. Chúng ta cần tỉnh táo để phân biệt đâu là lòng tốt thật sự, đâu chỉ là lời nói ngọt ngào nhằm trục lợi. Cảnh giác không có nghĩa là mất niềm tin, mà là biết đặt niềm tin đúng chỗ. Chỉ khi đó, xã hội mới giữ được sự trong sáng, con người mới có thể sống chân thành với nhau, và những kẻ giả nhân giả nghĩa mới không còn đất sống.

Lg. Hoàng Huy 


Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2025

Ở ĐỜI, KHÔNG GÌ BẰNG TỰ LỰC CÁNH S.INH

 

1.Gặp chuyện khó khăn, tự mình biết hổng ở đâu thì đắp, rối ở đâu thì gỡ. Không biết mình cần gì thì người khác cũng chẳng biết ở đâu mà dang t.a.y cứu.



2. Đường đời đ.ánh ngã sấp m.ặt, tr.ầy d.a tr.óc v.ảy cũng tự mình chữa lành, đã ngã rồi không tự đứng lên, tính để người ta đ.ạp lên sao?


3. Thành công không kh.oe kh.oang, thất bại không giải trình. Sự cố gắng trong im lặng luôn nhận được thành tựu rộn vang.


4. Nước m.ắ.t uất ức rơi, khóc một trận không biết trời mây thế nào, rồi tự mình lau khô, sáng mai lại vui vẻ ch.i.ến đ.ấ.u tiếp.


5. Có chuyện buồn bã, tự mình an ủi nội tâm, cho bản thân thêm động lực đi tiếp. Mình không hiểu mình, đừng mong người khác thấu hiểu.


6. Cha mẹ mình, mình không lo toan, vậy đùn đẩy cho ai lo. Nếu không gánh vác được gia đình, ít nhất cũng đừng để cha mẹ phải muộn phiền.


7. Đồ ăn mình tự mua, tiền mình tự kiếm, thân mình tự nuôi. Như vậy mình mới có lựa chọn sống theo ý của mình. Không gì bằng tự thân vận động.


8. Cầu thời, cầu vận không bằng cầu mình. Chuyện của mình người khác sao thấu, đợi chờ ban ơn chi bằng tự lực hành động.


9. Tương lai mình không lo, thì để ai lo đây? Nếu không làm chủ ước mơ của mình, mình sẽ phải lao động cho giấc mơ của kẻ khác.


10. Học hành làm việc tốt là ấm vào thân mình, cho mình chứ cho ai mà tiếc công sức. Mình không làm chủ cuộc đời thì sẽ có kẻ khác làm thay.


“Chúng ta đang thực sự tạo ra tương lai của mình bằng những việc làm mỗi ngày. Sự thành công hay thua kém sau này, do một t.a.y mình làm nên hôm nay. Sướng khổ thế nào là tự mình chuốc lấy!”

Cầu xin, tụng niệm để làm gì?

 TỤNG NIỆM VÀ CẦU XIN - SỰ THẬT CẦN THỨC TỈNH.



Trong lịch sử loài người, từ những nền tôn giáo lớn đến tín ngưỡng dân gian, ta đều thấy có một điểm chung: con người thường tìm đến sự tụng niệm, trì chú, cầu xin như một phương tiện, họ mong một đấng tối cao, hoặc các bậc giác ngộ, mong rằng bằng lòng thành và sự khẩn nài, họ sẽ được che chở, tha thứ, ban phúc lành, thậm chí giải thoát khỏi khổ đau. Họ tin rằng việc lặp đi lặp lại âm thanh trong mỗi đoạn kinh sẽ rửa sạch tội lỗi, tích công đức và mở ra con đường giải thoát. Tâm lý cầu xin ấy bắt nguồn từ sự bất an, sợ hãi trước khổ đau và cái c.h.ế.t. Có nhiều người khi đối diện với nghịch cảnh, và thay vì học cách đứng lên, họ lại mong có một bàn tay từ nơi siêu hình cứu rỗi. Con người sẽ nghĩ đây là bản năng tự nhiên, nhưng nếu thấu cội nguồn và sứ mệnh của linh hồn ta sẽ thấy đó là một mê lầm căn bản


.

Cầu xin, tụng niệm nghĩa là mong ai đó thực hiện mong muốn giúp mình. Nhưng hành trình của linh hồn ở nhân gian không phải là để người khác làm thay, mà là để tự thân vận động, phản ứng thông tin trong từng kịch bản tương tác để trưởng thành. Mỗi tuệ linh hóa thân làm người đều phải: đầu đội trời, chân đạp đất, gánh vác trên vai bốn hình thái của đạo – Hình thái đạo gia đình, xã hội, thầy trò, quốc gia. Một kiếp người là một cuộc chạy đua với thời gian, để ép từng đơn vị đ.ộ.c t.ố nhỏ nhất trong linh hồn, để kích hoạt tối đa thiện lương. Nếu bỏ qua hành trình ấy, cầu xin một sự giải thoát dễ dàng, thì chính là chạy chốn sứ mệnh của linh hồn.

Hãy thử suy ngẫm: một người cả đời tham lam, h.ạ.i n.g/ười, s.á.t s.i.nh vô số vì lợi ích ích kỷ bản thân, rồi cuối đời hối hận, ăn chay, tụng niệm cầu về Tây Phương Cực Lạc – liệu điều đó có khả dĩ không? Nếu như vậy thì luật Nhân Quả còn ý nghĩa gì nữa? Chân Lý Vạn Vật với hạt năng lượng nhỏ nhất cho ta thấy linh hồn chúng ta là một cấu trúc siêu vật chất, được hình thành từ cấp độ là những hạt năng lượng âm dương nhỏ nhất. Trong cuộc sống, những hành động cứu giúp hay gây tổn hại tới mọi người và vạn vật chúng ta sẽ sản sinh ra những hạt năng lượng âm dương khác nhau, mỗi hạt năng lượng được sản sinh ra nó sẽ chứa đựng thông tin của quá trình sản sinh ra nó, đó là hình ảnh, âm thanh, cảm xúc, mùi vị, màu sắc... Trong mỗi hạt năng lượng được sản sinh ra chúng sẽ cấu trúc vào bản thể linh hồn chúng ta.

Những hạt năng lượng dương là kết quả của quá trình mã hóa những thông tin tích cực (ý nghĩ và hành động mang giá trị phát triển bền vững tới vạn vật), những hạt năng lượng âm là kết quả của quá trình mã hóa thông tin tiêu cực (ý nghĩ và hành động gây tổn thương tới vạn vật). Một linh hồn yếu ớt, dễ tổn thương và dễ bộc phát b.ệ.n.h tâm, b.ệ.n.h lý là vì sản sinh ra quá nhiều hạt âm với sóng điện âm quá mạnh. Đây là nguyên nhân gốc của b.ệ..nh tật, khổ đau.

Không ai có thể xóa bỏ hậu quả của những hành động đã gieo chỉ bằng vài lời tụng niệm. Cầu mà thành, tụng mà thành, thì cả hệ thống cây nhân quả sụp đổ. Nếu mọi người chỉ cần cuối đời tụng vài thời kinh là được vãng sanh, thì sự công bằng của vũ trụ nằm ở đâu? Hóa ra người thiện lương cống hiến cả đời lại không bằng kẻ á.c chỉ biết chờ phút cuối cùng cầu tha thứ? Điều này đi ngược cơ chế chuyển sinh của vũ trụ.

Nếu cầu xin mà thành, thì chẳng còn ai phải khổ đau, nhân loại đã sớm an vui từ lâu rồi. Nếu tụng niệm mà thành Phật, thì hàng triệu người đã từng tụng kinh, gõ mõ hằng ngày lẽ ra đã thành bậc Bồ Đề. Nhưng sự thật thì không. Vì trí tuệ không sinh ra từ tụng niệm, mà từ sự thấu hiểu và thực hành đúng. Giác ngộ không phải là ngồi yên chờ phước đến, mà là hành động gánh vác sứ mệnh làm người, sống đời cống hiến. Cầu xin chính là tâm bám chấp – bám vào mong cầu, bám vào giả tướng, mà quên đi cốt lõi của tu hành. Cầu xin có thể giải toả ở một mức độ tâm lý: nó khiến con người thấy an lòng, tạm yên muộn phiền. Nhưng nó không dừng lại ở đó, nó khiến chúng ta dễ sa vào vòng xoáy: càng khổ càng cầu, càng cầu càng lệ thuộc, càng lệ thuộc càng quên đi sứ mệnh của linh hồn. Cầu xin một đấng tối cao cứu rỗi, chẳng khác nào học sinh bỏ lớp, đứng ngoài cổng trường cầu thầy giáo làm hộ bài thi. Đó là sự ấu trĩ, và chắc chắn không thể trưởng thành.

Cho nên, khi hiểu thấu, ta mới thấy: tụng niệm, trì chú, cầu xin chính là “mặc cả với nhân quả”, đó là đại mê lầm. Mê lầm ở chỗ biến tụng niệm thành phương pháp thay thế tu hành. Một người thật sự giác ngộ không còn bám chấp cầu xin, mà ngược lại, biết cảm ơn khổ đau vì nó chính là người thầy lớn. Biết tri ân vạn vật, vì trong từng sự việc, từng hiện tượng đều có bài học cho linh hồn.

Kết lại: Cầu xin, tụng niệm là biểu hiện của vô minh, là mê lầm nếu ta xem đó là con đường đi đến giải thoát. Nó biến con người thành kẻ ỷ lại, đi ngược nhân quả. Giác ngộ chỉ thuộc về những ai dám sống, dám hành động, dám cống hiến vì vạn vật. Còn cầu xin thì mãi chỉ là lời thì thầm trong vô vọng. Giác ngộ không thể vay mượn, không thể mua chuộc, không thể xin cho. Nó chỉ đến khi ta sống trọn vẹn một kiếp người với trách nhiệm, với bốn hình thái Đạo trên vai. Mỗi linh hồn phải tự thân đi qua con đường đó, không ai có thể đi thay, con đường đó đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang. Và chỉ khi bước đi trên con đường đó, linh hồn mới thật sự chuyển sinh bền vững.

Trung tâm Phong Thủy Thiên Uy


Thứ Năm, 14 tháng 8, 2025

Lòng từ bi hoá giải oán hận

  𝐁à 𝐓𝐡𝐚𝐧𝐡 Đề. 𝐌ẹ 𝐜ủ𝐚 𝐓ô𝐧 𝐠𝐢ả 𝐌ụ𝐜 𝐊𝐢ề𝐧 𝐋𝐢ê𝐧



Ngày xưa, có một bà lão nghèo nhưng lòng thành thì sâu nặng. Bà là một tín nữ thuần thành, tin tưởng tuyệt đối vào Phật pháp. Lòng tin ấy khiến bà tin rằng cơm gạo người đời gieo trồng ngoài đồng chưa đủ thanh tịnh để dâng lên cửa Phật.



Thế là năm này qua năm khác, bà tự tay trồng từng hạt lúa trong gáo dừa nhỏ, đựng đất sạch tinh khôi. Mỗi gáo được treo lên cao, tránh bụi trần, tránh người bước qua làm ô uế. Khi lúa chín, bà không dùng cối giã, mà dùng chính cán dao mới tinh, cẩn trọng lột từng lớp vỏ trấu, vừa làm vừa niệm Phật. Gạo trắng ngần, lòng thành tinh khiết, bà gom từng nắm nhỏ dâng lên chùa.


Một hôm, vị sư trụ trì bậc cao tăng đạo hạnh nhập định và thấy điềm báo: ngày mai sẽ có một vị đại thí chủ mang tâm thành sâu sắc đến cúng dường Tam Bảo. Trước khi đi xa, thầy dặn chú tiểu hãy tiếp đón người ấy thật chu đáo.


Ngày hôm sau, chùa vắng vẻ cả ngày. Không ai đến. Trời xế chiều, các sư trẻ bắt đầu nghi ngờ điềm mộng, cho là mơ hồ. Họ đóng cổng chùa, lòng có chút thất vọng.


Mãi đến khi mặt trời sắp lặn, một đôi vợ chồng già mới lụm khụm đến gõ cửa chùa, tay ôm lon gạo nếp nhỏ là kết tinh của bao ngày tỉ mẩn, chọn lựa từng hạt. Họ xin được dâng cúng Phật.


Thế nhưng các sư trẻ, vốn đã mỏi mệt cả ngày, lại thấy chỉ là lon gạo bình thường nên từ chối. "Không có Sư cả, không nhận cúng dường." Họ lạnh lùng nói, rồi khước từ, đẩy lui hai vợ chồng ra ngoài. Trong lúc giằng co, lon gạo rơi xuống, tung tóe khắp sân chùa.


Bà lão đau đớn, tủi hổ. Bao năm tâm thành nay bị xem thường như rác. Trong cơn tuyệt vọng, bà thốt lên lời thề độc:


"Từ kiếp này sang kiếp khác, hễ thấy chùa là ta phá chùa, thấy tượng là ta xô tượng!"


Vài ngày sau, vị trụ trì quay về, hỏi ngay về vị đại thí chủ trong điềm mộng. Các sư trẻ lắc đầu. Chỉ có một người nhắc lại chuyện hai vợ chồng già, lon gạo nếp và lời thề lạ lùng.


Nghe đến đó, thầy trụ trì lặng người. Thì ra… người ấy chính là đại thí chủ trong mộng. Bao nhiêu công phu tu tập của bà, chỉ vì thiếu lòng kính trọng mà biến thành nghiệp ác.


Thầy đến trước tượng Phật, dâng lời sám hối sâu xa. Và rồi, thầy nguyện một lời nguyện lớn lao, vang vọng muôn kiếp:


“Từ đời này sang đời khác, con nguyện làm con của bà.

Khi bà phá chùa, con nguyện xây thêm chùa.

Khi bà khinh chốn thiền môn, con nguyện tu hành tận lực.

Khi bà buông lời bất kính, con nguyện theo bà chẳng rời,

Cho đến khi nghiệp bà tan, tâm bà sáng,

Con mới dừng lại, mới an lòng.”


Vị sư ấy, chính là tiền thân của Tôn giả Mục Kiền Liên, một trong hai đại đệ tử thần thông bậc nhất của Đức Phật.


Còn bà lão chính là mẹ ngài, Thanh Đề người sau này bị đọa vào địa ngục vì những nghiệp chướng trần gian, và cũng chính nhờ lòng hiếu thảo vô bờ bến của con trai mình mà được cứu rỗi.


Một câu chuyện xưa, nhưng chưa bao giờ cũ.


Vì đôi khi, chỉ một cái nhìn thiếu từ bi, một thái độ hờ hững, cũng đủ khiến một người mang lòng oán hận đến cả kiếp sau.


Và cũng chính từ lòng từ bi, một lời nguyện lớn… có thể hóa giải mọi nghiệp duyên, dẫu là tăm tối nhất.

(Dựa theo bản dịch của cố lão hòa thượng Thích Tuệ Đăng)

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025

Chế độ đi tìm mộ liệt sĩ đối với thân nhân liệt sĩ

 Chế độ đi tìm mộ liệt sĩ thể hiện sự quan tâm, đồng hành của Đảng và Nhà nước trong hành trình đi tìm mộ liệt sĩ. Để hiểu rõ hơn về chế độ này cùng tham khảo bài viết sau.

Chế độ đi tìm mộ liệt sĩ đối với thân nhân liệt sĩ

Thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ (không quá 03 người) đi tìm mộ liệt sĩ được hỗ trợ tiền đi lại và tiền ăn khi đến các đơn vị, địa phương (nơi liệt sĩ đã tham gia công tác, tham gia chiến đấu) 01 năm/lần.



Mức hỗ trợ tiền đi lại và tiền ăn tính theo khoảng cách từ nơi cư trú đến các đơn vị, địa phương nơi liệt sĩ đã tham gia công tác, tham gia chiến đấu.


Căn cứ theo khoản 3 Điều 5 Quyết định 75/2013/QĐ-TTg, thân nhân liệt sĩ hoặc người thờ cúng liệt sĩ đi tìm mộ liệt sĩ được hưởng hỗ trợ khi:

- Không thuộc trường hợp mộ liệt sĩ đã có đầy đủ thông tin đang an táng tại nghĩa trang liệt sĩ;

Liệt sĩ chưa xác định được mộ cụ thể trong nghĩa trang liệt sĩ nhưng có tên trong danh sách quản lý của nghĩa trang;

- Liệt sĩ có thông tin địa phương nơi hy sinh ghi trong giấy báo tử/theo thông báo của cơ quan có thẩm quyền cấp giấy báo tử

Theo đó, thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ được:

- Hỗ trợ tiền đi lại và tiền ăn khi đến các đơn vị, địa phương (nơi liệt sĩ đã tham gia công tác, tham gia chiến đấu), với số lượng không quá 03 người, mỗi năm 01 lần.


- Mức hỗ trợ như đối với trường hợp thăm viếng mộ liệt sĩ.


Cụ thể, theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 5 Thông tư số 298/2017/TT-BQP, thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ đi tìm mộ liệt sĩ được hỗ trợ như sau:


- Được hỗ trợ tiền đi lại (cả lượt đi và lượt về) theo khoảng cách từ nơi cư trú đến các đơn vị nơi liệt sĩ đã tham gia công tác, tham gia chiến đấu; số lượng không quá 03 người, mỗi năm một lần; mức chi cụ thể một lượt như sau:

Khoảng cách dưới 100 km: 150.000 đồng/người;

Khoảng cách từ 100 km - dưới 300 km: 300.000 đồng/người;

Khoảng cách từ 300 km - dưới 500 km: 500.000 đồng/người;

Khoảng cách từ 500 km - dưới 1.000 km: 800.000 đồng/người;

Khoảng cách từ 1.000 km - dưới 1.500 km: 1.100.000 đồng/người;

Khoảng cách từ 1.500 km - dưới 2.000 km: 1.500.000 đồng/người;

Khoảng cách từ 2.000 km trở lên: 1.700.000 đồng/người


- Được hỗ trợ tiền ăn bằng 02 lần mức tiền ăn cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh/người/ngày, trong không quá 05 ngày cho không quá 03 người.

Thủ tục giải quyết chế độ đi tìm mộ liệt sĩ

Căn cứ theo điểm c khoản 3 Điều 5 Thông tư 298/2017/TT-BQP thủ tục giải quyết chế độ hỗ trợ thân nhân hoặc người thờ cúng liệt sĩ đi tìm mộ liệt sĩ thực hiện như sau:


Bước 1: Thân nhân/gười thờ cúng liệt sĩ đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cấp giấy giới thiệu (mẫu 03) và có trách nhiệm khai báo chính xác những thông tin để ghi trong giấy giới thiệu.

Bước 2: Ủy ban nhân dân cấp xã cấp giấy giới thiệu cho đối tượng đi tìm mộ liệt sĩ.

Bước 3: Thân nhân/người thờ cúng liệt sĩ nộp đơn cho đơn vị nơi liệt sĩ đã tham gia công tác, tham gia chiến đấu các giấy tờ gồm:


- Giấy giới thiệu (bản chính);

- 01 bản sao chứng thực Giấy báo tử liệt sĩ hoặc Bằng Tổ quốc ghi công;


Bước 4: Bộ chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố) hoặc đơn vị cấp sư đoàn hoặc tương đương trở lên, căn cứ vào các giấy tờ của thân nhân quyết định hỗ trợ lập phiếu chi trả (Mẫu 02) và lưu các giấy tờ nêu trên làm chứng từ thanh, quyết toán.

Đặc điểm của Ngũ hoàng Đại sát

 Theo bước Lường thiên xích, Ngũ hoàng di chuyển sẽ có tính quy luật, các bước di chuyển tuân theo quy luật của con số 9, có nghĩa là khi Ngũ Hoàng bay đến đâu, đến cung vị nào thì 9 năm sau, 9 tháng sau, ngày, giờ sẽ lặp lại đúng vị trí đó.



Đặc điểm của Ngũ hoàng Đại sát

Ngũ hoàng Đại sát thường ẩn chứa ở những nơi tích tụ rác rưởi, ẩm thấp, lạnh lẽo, cổ quái, ghê rợn... nếu gặp phải những loan đấu đá như đá lởm chởm, nhà đổ nát rêu phong, cây cổ thụ chết dở, miếu thần, Lầu cổ... sẽ làm tăng thêm uy lực cho Ngũ hoàng sát. Khi đó tính sát của Ngũ hoàng càng lớn.

Nơi gặp Ngũ Hoàng nên tĩnh, không nên động, không nên khắc chế mà cần phải tiết hao. Hơn nữa, Ngũ Hoàng tuyệt đối không được gặp các thần sát lớn khác.


Về hành: Ngũ Hoàng mang hành Thổ, màu sắc là màu vàng, phương vị Hậu thiên Bát quái thuộc trung cung. Để hóa giải ta nên dùng các loại pháp khí, vật dụng mang tinh kim mạnh để hóa giải.


Sức ảnh hưởng của Ngũ hoàng Đại sát

Theo nhiều chuyên gia phong thuỷ, nếu ai vướng phải Ngũ hoàng đại sát thì thường hay mắc phải bệnh tật, gặp tai nạn bất ngờ, tranh chấp kiện tụng, làm ăn khó khăn hay thậm trí là mất việc mất chức,… Còn đối với tổng thể của vũ trụ thì Ngũ hoàng đại sát chiếu về phương nào thì nơi đó sẽ xẩy ra các thiên tai như hạn hán, động đất, núi lửa, cháy rừng, mất mùa.

Sức ảnh hưởng của Ngũ hoàng Đại sát

Theo nhiều chuyên gia phong thuỷ, nếu ai vướng phải Ngũ hoàng đại sát thì thường hay mắc phải bệnh tật, gặp tai nạn bất ngờ, tranh chấp kiện tụng, làm ăn khó khăn hay thậm trí là mất việc mất chức,… Còn đối với tổng thể của vũ trụ thì Ngũ hoàng đại sát chiếu về phương nào thì nơi đó sẽ xẩy ra các thiên tai như hạn hán, động đất, núi lửa, cháy rừng, mất mùa.

Ngũ hoàng Đại sát là gì? Cách xác định và hóa giải

 Theo quan niệm của người Châu Á, yếu tố phong thủy luôn được đặt hàng đầu khi bắt đầu thiết kế nội thất nhà ở, bởi chúng mang đến những điềm lành, tài lộc và may mắn cho cuộc sống của các thành viên trong gia đình.

Ngũ hoàng Đại Sát là một trong những sao xấu, tính hung của sao này mang đến lớn hơn nhiều lần so với tam sát và Thái tuế. Vậy, Ngũ hoàng đại sát được xác định như thế nào và cách hóa giải sao này  ra sao? Hãy cùng Trung tâm Phong thủy Thiên Uy tìm hiểu chi tiết, cụ thể về ngũ hoàng đại sát mà mọi người đang gặp phải nhé!



Ngũ hoàng Đại sát là gì?

Ngũ Hoàng, trong Cửu tinh còn được gọi là Ngũ Hoàng Liêm Trinh, một trong những sát tinh mạnh nhất của phong thủy. Sức ảnh hưởng và sự sát hại của chúng còn mạnh hơn cả Thái Tuế và Tam Sát. Trong phong thủy Huyền không, nó thuộc một đại hung thần, ác sát, thuộc loại sao bệnh phù, một sát tinh có sức công phá rất lớn, bất kỳ ai cùng không được phạm đến nó, nếu phạm phải, nặng sẽ gặp tai họa liên tiếp, nguy hiểm đến tính mạng; nhẹ sẽ phá tài sản, mắc bệnh tật.


Ngũ hoàng Đại Sát được chia thành Ngũ hoàng đại vận, Ngũ hoàng trạch tinh, Ngũ hoàng lưu niên, Ngũ hoàng Lưu nguyệt, Ngũ hoàng lưu nhật và Ngũ hoàng lưu thời. Trong đó, Ngũ hoàng Lưu nguyệt, thời, nhật chỉ được coi là thứ yếu, tác hại không đáng kể. Ngũ hoàng trạch tinh tuy diễn biến chậm nhưng ảnh hưởng cực kỳ lớn. Mức độ ảnh hưởng nguy hại mạnh và nhanh chính là Ngũ hoàng Lưu niên.

Những năm hướng nhà có Ngũ Hoàng lưu niên bay đến tuyệt đối không được nhập trạch, động thổ, phá tường, khoan đục...Những hành động trên sẽ kích hoạt độ sát thương của ngũ hoàng và gây nguy hại cho gia chủ và những người sống trong căn nhà đó. Trong năm tuyệt đối không động trong khu vực có ngũ hoàng ( như để TV, máy lạnh, quạt...). Tuyệt đối tránh tạo độ nóng ( nhất là bếp, khu vực ủi đồ, máy móc khi hoạt động tạo sức nóng...) cho khu vực ngũ hoàng tạm đáo trong năm đó để tránh kích thích tính hung của nó.


Những số từ 1 đến 9 khi tổ hợp với Ngũ hoàng không phải là hiện tượng tốt. Trong số các tổ hợp có liên quan đến Ngũ hoàng, các tổ hợp đáng lưu ý nhất đó là: tổ hợp sao Nhị Hắc tổ hợp sao Nhị Hắc - Ngũ Hoàng (2-5), Thất Xích - Ngũ Hoàng (5-7); Cửu Tử - ngũ Hoàng (5 - 9) đây là những tổ hợp sao rất hung, trong vận 8 (2004 - 2023) một số sơn hướng sẽ gặp phải tổ hợp sát này. Lưu ý các bạn cần hết sức chú ý để tránh phạm các cung vị mà tổ hợp này bay đến khi thiết kế phong thủy hoặc bày trí, sắp xếp đồ đạc trong nhà.